1.     Ngành công nghiệp hỗ trợ cần phải được hiểu như thế nào?

Công nghiệp hỗ trợ là một thuật ngữ mới và hiện đang rất “nóng” ở Việt Nam, nó được xem là ngành công nghiệp có vai trò hỗ trợ cho việc sản xuất các thành phần chính. Ngành công nghiệp hỗ trợ rất đa dạng bao gồm cả gia công cơ khí, chế tạo khuôn đúc, rèn, nhiệt luyện, xử lý bề mặt; sản xuất những linh kiện, phụ liệu, phụ tùng, sản phẩm bao bì, nguyên liệu để sơn, nhuộm…bao gồm cả những sản phẩm trung gian, những nguyên liệu sơ chế. Như vậy, ngành công nghiệp hỗ trợ là một cơ sở hoạt động công nghiệp với nhiều chức năng để phục vụ một số lượng lớn ngành lắp ráp, chứ không nên coi nó đơn giản chỉ là ngành thu nhập ngẫu nhiên những linh kiện sản xuất không liên quan. Sản phẩm ngành công nghiệp hỗ trợ thường được sản xuất với quy mô nhỏ, thực hiện bởi các doanh nghiệp nhỏ và vừa.

2.     Vai trò quan trọng của ngành công nghiệp hỗ trợ

            Theo nhận định chung, Việt Nam “sẽ không có một nền công nghiệp phát triển nếu như ngành công nghiệp hỗ trợ cứ tiếp tục “lẹt đẹt” như  hiện nay”. Với một xuất pháp điểm thấp như Việt Nam thì phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ là điều không thể chần chừ. Ngành công nghiệp hỗ trợ là nền tảng của các ngành công nghiệp trọng yếu, phát triển ngành này sẽ góp phần nâng cao tỷ lệ nội địa hóa, nâng cao năng lực cạnh tranh cho các ngành công nghiệp trọng yếu. Đồng thời, đây cũng là một giải pháp trong chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam năm 2020 nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài [1].

Ngành CNHT tạo nhiều công ăn việc làm, thu hút lao động dư thừa, rất phù hợp với điều kiện Việt Nam.

            CNHT đóng vai trò quan trọng trong việc cạnh tranh của sản phẩm công việc chính, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa theo hướng mở rộng và chuyên sâu. CNHT phát triển sẽ kéo theo các công ty lắp ráp và sản xuất thành phẩm cuối cùng thoát khỏi cảnh phụ thuộc vào nhập khẩu. Giá nhập khẩu những sản phẩm đó có thể rẻ nhưng phí tổn chuyên chở bảo hiểm sẽ đẩy chi phí đầu vào tăng cao. Ngoài ra, còn chưa kể đến rủi ro về tiến độ, thời gian nhập hàng nhập khẩu.

            CNHT có vai trò đặc biệt trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài FDI, nhất là FDI trong ngành sản xuất các loại máy móc. Một thực tế cho thấy, tỷ lệ chi phí về công nghiệp hỗ trợ cao hơn nhiều so với chi phí lao động trong giá thành sản phẩm, nên một nước dù có ưu thế về lao động nhưng công nghiệp hỗ trợ không phát triển cũng làm cho môi trường đầu tư kém hấp dẫn.

3.     Thực trạng ngành công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam

Theo các chuyên gia kinh tế, ngành CNHT ở Việt Nam mới chỉ ở giai đoạn sơ khai và còn yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu của ngành công nghiệp chế tạo, lắp ráp, đặc biệt là cung cấp cho các Doanh nghiệp, các tập đoàn có vốn đầu tư nước ngoài. Hơn nữa, số lượng Doanh nghiệp chuyên về CNHT còn ít, trình độ công nghệ chỉ ở mức trung bình, thậm chỉ còn có thể nói là thấp và lạc hậu so với khu vực và nhiều quốc gia trên thế giới. Ngành CNHT đã và đang là một vấn đề rất đáng lo ngại cho sự phát triển ổn định, bền vững nền kinh tế nước ta trong quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng.

Nền kinh tế phát triển, quá trình đầu tư cho sản xuất kinh doanh ngày càng tăng, đặc biệt là FDI hiện nay đang đổ mạnh vào Việt Nam. Quá trình đầu tư này không những cần thiết bị, máy móc hiện đại mà còn đòi hỏi nguyên liệu, các chi tiết, các phụ kiện cung ứng cho việc chế tạo ra sản phẩm của các Doanh nghiệp đó ngày càng lớn. Hiện nay, ngoài trừ ngành sản xuất xe máy được coi là ngành có CNHT cao nhất với tỷ lệ nội địa hóa gần 80%, còn những ngành còn lại sản phẩm hỗ trợ lại rất nghèo nàn khiến cho các Doanh nghiệp đầu tư vào rất khó tìm được đối tác hỗ trợ có hiệu quả thiết thực. Tiêu biểu đó là ngành dệt may – ngành đạt kim ngạch vượt 15,6 tỷ USD năm 2011, đạt tốc độ tăng trưởng trên 38%, mức cao nhất trong 5 năm qua và là mặt hàng xuất khẩu nhiều nhất của Việt Nam; nhưng không có ngành CNHT thích đáng nên đã phải nhập tới 80% tỷ lệ nguyên liệu, phụ liệu sản xuất. Ngành sản xuất ô tô đang là ngành có nhu cầu tiêu thụ ngày càng lớn, nhưng tỷ lệ nội địa hóa chỉ đạt 3-7% giá thành, cung cấp được vài loại sản phẩm đơn giản, giá trị thấp như ghế ngồi, khung xe, một số chi tiết phụ bằng nhựa, kim loại…Ngành công nghiệp điện tử, được coi là ngành xương sống của ngành công nghiệp Việt Nam, cũng chỉ có tỷ lệ nội địa hóa sản phẩm 20%, chủ yếu là bao bì, linh kiện nhựa; trong khi đó chất lượng sản phẩm của ngành này còn yếu và không ổn định. Các ngành khác như: ngành nhựa, cơ khí, sản xuất bao bì, sản xuất nguyên vật liệu…cũng phải nhập nguyên liệu phụ.

Gần đây chi phí cho giá thành nguyên vật liệu trên thế giới tăng vọt nên các Doanh nghiệp FDI đều mong muốn đều mong muốn tăng tỷ lệ nội địa hóa để giảm chi phí và tăng khả năng cạnh tranh về giá. Theo điều tra của tổ chức thương mại Nhật Bản (Jetro)[7] thì có tới 72% các nhà sản xuất nước ngoài đầu tư vào Việt Nam nói rằng họ có kế hoạch tăng tỷ lệ nội địa hóa nguyên, phụ liệu, linh kiện. Tỷ lệ nội địa hóa của các nhà sản xuất Nhật Bản vào Việt Nam mới đạt 22,6% về giá trị, thấp hơn nhiều so với các nước ASEAN, Thái Lan đạt 50%, Malaysia 45%, Indonexia 39%. Điều tra này cũng chỉ rõ rằng chất lượng sản phẩm của các Doanh nghiệp Việt Nam cung ứng chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra, có quá ít Doanh nghiệp làm công nghiệp hỗ trợ. Nếu có thì cũng chỉ là tham gia ở khâu đóng gói, bao bì, còn khâu cung ứng linh, phụ kiện cho việc sản xuất không có mấy. Thường các Doanh nghiệp phải nhập từ nước thứ 3 như Thái Lan, Hàn quốc, Trung quốc; như vậy chắc chắn giá thành sản phẩm phải bị đẩy lên cao hơn so với chính các Doanh nghiệp Việt Nam trực tiếp cung cấp nguyên, phụ kiện. Một Doanh nghiệp Hàn quốc cũng cho biết họ đã phải đến thăm khoảng 100 Doanh nghiệp Việt Nam mới tìm được một nhà cung ứng linh kiện phù hợp. Công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam chưa phát triển còn do các nhà sản xuất và lắp ráp nước ngoài thiếu thông tin về các công ty cung cấp linh kiện. Thông tin từ các danh bạ, Doanh nghiệp rất hạn chế, quá bao quát, không tập trung vào một lĩnh vực cụ thể, những thông tin này chưa đủ để các Doanh nghiệp rút ngắn thời gian tìm kiếm đối tác cung ứng linh kiện tiềm năng.

            Như vậy, CNHT ở Việt nam không chỉ đặt ra yêu cầu cần phát triển về số lượng mà còn phải đảm bảo chất lượng cao, đủ sức cạnh tranh trên trường quốc tế. Các Doanh nghiệp đầu tư ngày càng hiện đại thì càng khắt khe với chất lượng, thông số kỹ thuật, nguồn gốc nguyên vật liệu. Đây là thách thức rất lớn nhưng cũng là thời cơ để công nghiệp phụ trợ có điều kiện phát triển mạnh, cung ứng nguyên, phụ liệu, linh kiện cho các Doanh nghiệp trong các lĩnh vực sản xuất công nghiệp dịch vụ lớn.

4.     Giải pháp chủ yếu

Quyết định về chính sách phát triển một số ngành công nghiệp hỗ trợ số 12/2011/QĐ-TTg [3] được coi là lời tuyên bố chính thức đầu tiên của Chính phủ Việt Nam về sự ủng hộ dành cho ngành công nghiệp hỗ trợ. Tuy nhiên, quyết định này được đánh giá là chưa đủ mạnh để thúc đẩy công nghiệp hỗ trợ phát triển; bởi là quyết định nên nó vẫn chịu ràng buộc của các văn bản pháp luật cao hơn hiện hành như Luật Doanh nghiệp, các quy định của pháp luật về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, về công nghệ cao, về các chương trình xúc tiến thương mại, xúc tiến đầu tư…nên quyết định chưa phải là một chính sách mạnh mẽ, điều mà nhiều người mong đợi là một văn bản pháp luật cao hơn, thì đến nay chưa thể có. Các ưu đãi trong quyết định cũng không thể vượt qua được các văn bản pháp luật hiện hành. Mặc dù vậy bằng việc thành lập Hội đồng thẩm định dự án cũng có thể áp dụng các ưu đãi đặc biệt cho các dự án quan trọng của Chính phủ như vậy sẽ có hiệu lực và đi vào cuộc sống. Hơn nữa, quyết định ban hành đúng thời điểm đang có xu hướng chuyển dịch dòng đầu tư của các nước vào khu vực Đông Nam Á, trong đó Việt Nam được cho là thị trường đang lên bằng sự “cộng hưởng” của bối cảnh như vậy, tính khả thi của quyết định sẽ tăng lên. Chính vì vậy, giải pháp đưa ra cho ngành công nghiệp hỗ trợ hiện nay đó là:

4.1.  Xây dựng chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ

            Đây là một trong những giải pháp trọng tâm của chính sách xây dựng CNHT. Theo kinh nghiệm của các quốc gia trong phát triển CNHT thì các DNNVV chính là nguồn chính để hình thành các doanh nghiệp hỗ trợ và là khu vực hấp thụ các chuyển giao công nghệ một cách tốt nhất. Tuy nhiên, khu vực này lại rất khó để phát triển. Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự yếu kém của công nghiệp hỗ trợ hiện nay của Việt Nam là hệ thống các DNNVV còn yếu, cả về số lượng lẫn năng lực sản xuất

            Những cản trở chính của các DNNVV chủ yếu tập trung vào các khó khăn về vốn, công nghệ, trình độ quản lý, năng lực nắm bắt thị trường và khả năng đàm phán kinh doanh. Chính sách hỗ trợ DNNVV phải nhằm tháo gỡ các khó khăn này và tạo điều kiện trong khởi sự kinh doanh, đồng thời, chính sách hỗ trợ DNNVV cần được tính toán cụ thể để có ưu đãi rõ nét đối với các DNNVV trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp

            Một số chính sách hỗ trợ các DNNVV có thể sử dụng [2]:

-        Hỗ trợ về vốn thông qua giảm và giãn thuế, thuê đất, thời gian và thủ tục pháp lý;

-        Hỗ trợ về thông tin thị trường;

-        Hỗ trợ pháp lý và khả năng đàm phán kinh doanh;

-        Hỗ trợ trong thiết lập quan hệ với các doanh nghiệp lớn.

4.2. Hình thành các trung tâm đào tạo và chuyển giao công nghệ có sự tham gia của các doanh nghiệp lớn và các DNNVV

            Một trong các cản trở lớn nhất của các DNNVV vào hệ thống cung cấp của các doanh nghiệp lắp ráp là không tương thích về công nghệ và chất lượng sản phẩm, do sự chênh lệch về trình độ công nghệ và sự thiếu thông tin của hai bên trao đổi. Để giải quyết vấn đề này cần tập trung vào hoạt động chuyển giao công nghệ sản xuất và quản lý giữa các doanh nghiệp lớn và các DNNVV. Đặc điểm giải pháp này là hình thành một hệ thống hấp thụ công nghệ liên tục dựa trên sự tự nguyện của các doanh nghiệp tham gia.

            Cần hình thành các trung tâm đào tạo và chuyển giao công nghệ trong một số ngành then chốt như chế toạn thiết bị cơ khí, dệt, nhuôm, da, nhựa và cao su. Các trung tâm này sẽ được phối hợp của bốn bên:

-        Địa phương chịu trách nhiệm về chi phí đầu tư ban đầu, thành lập trung tâm

-        Các trường đại học và viện nghiên cứu hỗ trợ về mặt kỹ thuật, công nghệ.

-        Các doanh nghiệp lớn xây dựng chương trình và các hoạt động chuyển giao công nghệ.

-        Các DNNVV là các đối tượng hấp thụ sự chuyển giao công nghệ này.

Thông qua các hiệp hội chuyên ngành để hỗ trợ vận hành của các trung tâm (Hội cơ khí, hiệp hội ô tô,…) Mục tiêu hoạt động của trung tâm là để cho các doanh nghiệp lớn giới thiệu về công nghệ và những yêu cầu mà họ cần, đồng thời các DNNVV tiếp cận với công nghệ của các doanh nghiệp khách hàng tương lai.

4.3. Hỗ trợ phát triển lĩnh vực cho thuê tài chính

            Đây là giải pháp đi kèm với hỗ trợ công nghệ và vốn cho các DNNVV. Việc cho thuê tài chính sẽ trở thành hoạt động khá quan trọng trong CNHT vì nó cung cấp nguồn công cụ cho các hoạt động sản xuất công nghiệp. Đặc biệt, trong điều kiện các DNNVV yếu về vốn và công nghệ, việc hình thành các dịch vụ cho thuê tài chính sẽ giúp các doanh nghiệp này giảm bớt rủi ro khi đầu tư cho công nghệ, giảm chi phí đầu tư ban đầu, tiếp cận được các công nghệ hiện đại hơn và rút ngắn thời gian hấp thụ công nghệ.

            Vì vậy, cần có chính sách cụ thể cho việc thúc đẩy các doanh nghiệp cho thuê tài chính dựa trên sự phát triển nhanh chóng của hệ thống ngân hàng thương mại và hạ tầng công nghệ thông tin.

4.4. Hỗ trợ phát triển lĩnh vực đào tạo các ngành nghề theo mục tiêu

            Để phát triển lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ cần có đội ngũ nhân lực – các công nhân có tay nghề trong lĩnh vực công nghiệp mục tiêu và các chuyên viên trong các lĩnh vực đồi hỏi chuyên môn cao.

            Những lĩnh vực cần thu hút lao động chất lượng cao sẽ gồm: Chuyên gia về vận tải, bảo hiểm, chuyên gia về cho thuê tài chính, chuyên gia về thiết kế kiểu dáng công nghiệp, chuyên gia về cơ khí, nhựa, hóa chất.

            Tập trung phát triển các cơ sở và hoạt động đào tạo tay nghề trong lĩnh vực ưu tiên như may mặc, lắp ráp cơ khí, xử lý kim loại, nhựa và hóa chất. Để thực hiện chương trình này, cần phải:

-        Thực hiện việc kết hợp đào tạo trong các trung tâm chuyển giao công nghệ

-        Xây dựng chính sách dành cho các doanh nghiệp trong ngành khi đảm nhận thêm vai trò đào tạo tại chỗ

-        Hỗ trợ các trung tâm đào tạo mở các ngành nghề đào tạo theo yêu cầu.

4.5. Phát triển năng lực vận tải, giao nhận và dịch vụ thông tin liên lạc

            Điểm hạn chế rất lớn đối với công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam hiện nay là quy mô thị trường khá nhỏ và bị cắt khúc trong khi hệ thống giao thông vận tải lại không phát triển đúng mức. Với đặc điểm này sẽ làm phát sinh chi phí cao cho các hoạt động công nghiệp do không đạt được các lợi thế về quy mô. Thêm vào đó, một số sản phẩm công nghiệp và công nghiệp hỗ trợ muốn phát triển phải thâm nhập vào các thị trường trong nước và quốc tế nên năng lực vận tải và giao nhận, thông tin liên lạc cực kỳ quan trọng. Với việc gia tăng năng lực vận tải và giao nhận, đặc biệt là giảm chi phí sẽ làm cho ngành có thêm lợi thế để mở rộng thị trường. Hệ thống vận tải, giao nhận và thông tin liên lạc còn đặc biệt quan trọng đối với công nghiệp hỗ trợ vì nó liên quan đến chi phí và thời gian giao nhận hàng, hai trong số 3 nhân tố chủ yếu của kinh doanh trong lĩnh vực cung cấp sản phẩm trung gian. Chính vì lý do đó, đây là giải pháp hàng đầu và là khâu đột phá trong các giải pháp phát triển CNHT.


TÀI LIỆU THAM KHẢO:

  1. Cổng thông tin điện tử Chính phủ nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam http://chinhphu.vn/
  2. Thông tư 10/2014/TT-BCT quy định thực hiện cơ chế, chính sách xúc tiến thương mại, phát triển thị trường, phát triển công nghiệp hỗ trợ phục vụ phát triển sản phẩm quốc gia do Bộ trưởng Bộ Công thương ban hành ngày 12 tháng 03 năm 2014.
  3. Quyết định 12/2011/QĐ-TTg do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt về chính sách phát triển một số ngành công nghiệp hỗ trợ ban hành ngày 22 tháng 02 năm 2011.
  4. Quyết định 34/2007/QĐ-BCN do Bộ trưởng Bộ Công nghiệp phê duyệt Quy hoạch phát triển công nghiệp hỗ trợ đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020.
  5. Quyết định 1556/QĐ-TTg năm 2012 phê duyệt Đề án “Trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ” do Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 17 tháng 10 năm 2012.
  6. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật http://vbqppl.mpi.gov.vn/Pages/default.aspx?lv=9a6bd0f7-0eff-4c6f-97d8-0735997ece80&list=document
  7. Tổ chức Xúc tiến Thương mại Nhật Bản https://www.jetro.go.jp/vietnam/
  8. Đoàn Thị Ngọc Hân

    Khoa Kinh tế - Đại học Vinh

    Email: doanngochantc@gmail.com