1.
Khái
quát kết quả hoạt động kinh doanh của các ngân hàng Việt Nam năm 2018
Kết thúc năm 2018, hoạt động kinh doanh của các ngân hàng Việt
Nam có những cải thiện rõ nét:
Thứ nhất, các
kết quả kinh doanh tăng cao hơn so với năm trước. Theo Báo cáo Tổng quan về thị
trường tài chính năm 2018 của Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia:
- Nguồn vốn huy động trong năm 2018 từ tổ chức kinh tế và dân
cư của hệ thống tăng trưởng ổn định, ước tăng 15% so với năm 2017 (năm 2017
tăng 14,6%).
- Tài sản hệ thống các TCTD tăng khoảng 11,5% so với cuối năm
2017; trong đó, tổng tín dụng ước tăng khoảng 14-15% giảm nhẹ so với năm 2017
(17,6%). Mặc dù đây là mức tăng trưởng
thấp nhất trong ba năm gần đây, nhưng phù hợp với mục tiêu kiểm soát lạm phát
và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.
- Lợi nhuận ước tăng trưởng 40%. Nhiều chỉ tiêu sinh lời tiếp
tục được cải thiện, với ROA ước đạt 0,9% và ROE ước đạt 13,6% (năm 2017 là
11,22%).
- Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR) bình quân của hệ thống tổ
chức tín dụng đã được cải thiện, đạt 11,1% nhờ vốn tự có tăng 12,2%, trong khi
tổng tài sản có rủi ro tăng thấp hơn (khoảng 10,8%). Tỷ lệ vốn cấp I/tổng tài
sản có hệ số rủi ro là 8,8% (năm 2017 là 7,8%).
- Tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn sử dụng cho vay trung và dài hạn
bình quân đã giảm đáng kể, xuống còn 28,7% cho thấy các NHTM đã chủ động cơ cấu
lại kỳ hạn huy động và cho vay để đáp ứng tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài
hạn dưới 40% từ 1/1/2019.
Thứ hai,
mặt bằng lãi suất giữ ổn định. Mặc dù một số ngân hàng đã có động thái tăng lãi
suất huy động nhưng mức độ tăng nhỏ, không thể hiện xu hướng tăng của thị
trường.
Hiện mặt bằng lãi suất huy động đồng Việt Nam phổ biến ở mức
0,6%-1%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng;
4,3%-5,5%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng;
5,3%-6,5%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 6 tháng đến dưới 12 tháng; kỳ hạn
trên 12 tháng ở mức 6,5%-7,3%/năm.
Lãi suất cho vay đồng
Việt Nam phổ biến khoảng 6%-9%/năm đối với ngắn hạn và 9%-11%/năm đối với trung
và dài hạn; đối với khách hàng tốt, lãi suất cho vay ngắn hạn từ 4%-5%/năm.
Thứ ba, cơ
cấu tín dụng tiếp tục chuyển hướng theo hướng tích cực tập trung chủ yếu vào
lĩnh vực sản xuất kinh doanh, nhất là các lĩnh vực ưu tiên, các dự án lớn,
trọng tâm trọng điểm theo chủ trương của Chính phủ. Tăng trưởng tín dụng của
ngành ngân hàng năm qua thấp hơn so với năm 2017, ước tăng trưởng 14-15% (năm
2017 tăng 17,6%), nhưng chất lượng tăng cao. Nhiều nhà băng vẫn đạt được lợi
nhuận tăng đột biến như VIB, Eximbank, OCB, TPBank, Nam A Bank…
Một trong những nguyên nhân dẫn đến lợi nhuận cao trong năm
2018, bên cạnh tín dụng còn có nguồn thu từ xử lý nợ xấu.
Xử lý nợ xấu cũng có
chuyển biến tích cực, đó là việc có 6 ngân hàng đã công bố xóa sạch nợ tại công
ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) bao gồm:
Vietcombank, Techcombank, MBBank, VietinBank, ACB và VIB.
Trong năm 2018, giá trị xử lý nợ xấu tăng khoảng 30% so với
năm 2017 (không bao gồm nợ bán cho VAMC). Trong đó, sử dụng dự phòng rủi ro tín
dụng chiếm 59,8%; thu nợ từ khách hàng chiếm 33,2%; bán phát mại tài sản chiếm
3%, còn lại là các hình thức khác.
Thứ tư, với các ngân hàng Việt thì hoạt động kinh doanh
truyền thống là tín dụng vẫn chiếm ưu thế, đóng góp 80 - 90% vào tổng lợi
nhuận. Do đó, hiện nay các sản phẩm thu hút được nhiều khách hàng nhất là vay
vốn, tiếp đến là nhu cầu sử dụng dịch vụ thanh toán và thẻ, sau đó là nhu cầu
gửi tiền. Tuy nhiên, để giảm dần phụ thuộc vào tín dụng và tăng trưởng lợi
nhuận bền vững, các nhà băng đã và đang từng bước đẩy mạnh hoạt động dịch vụ.
Thứ năm, nhiệm vụ tăng vốn của ngành ngân hàng trong nhiều
năm qua gặp khó khăn, nhưng trong năm 2018 ghi nhận hai nhà băng đạt CAR theo
chuẩn Basel II trước thời hạn là năm 2020 là VIB và Vietcombank.
Thứ sáu, do vốn huy động tăng
trưởng ổn định trong khi tín dụng tăng thấp hơn so với các năm trước nên thanh
khoản của hệ thống TCTD năm 2018 duy trì ổn định.
2.
Thách thức đối với các
ngân hàng Việt Nam trong năm 2019
Kết quả kinh doanh thuận lợi năm 2018 sẽ tạo tiền đề cho các ngân
hàng hoạt động kinh doanh tốt hơn trong thời gian tới. Tuy nhiên, bước sang năm
2019, hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng sẽ phải đối mặt với nhiều khó khăn thách
thức như sau:
-Thách thức lớn nhất chính là những biến động bất thường từ thị
trường tài chính toàn cầu xuất phát từ cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung và lộ
trình thắt chặt tiền tệ của FED. Nếu cuộc chiến này trở nên căng thẳng hơn,
chắc chắn sẽ khiến tăng trưởng kinh tế thế giới chậm lại. Trong khi Việt Nam
ngày càng hội nhập sâu rộng với kinh tế thế giới, theo đó mức độ chịu ảnh hưởng
sẽ là không nhỏ nếu tình hình kinh tế thế giới xấu đi. Sự bất lợi trên sẽ gây
khó khăn cho hoạt động kinh doanh của hệ thống ngân hàng. Bên cạnh đó, sức ép
từ Hiệp định CTPPP đối với ngân hàng cũng lớn dần khi các NĐT nước ngoài tham
gia sâu, rộng hơn, cạnh tranh gay gắt với các ngân hàng trong nước.
Những thay đổi về chính sách lãi suất của FED sẽ tác động lên
chính sách lãi suất của ngân hàng Việt. Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) tăng lãi
suất sẽ tạo sức ép lên lãi suất huy động tiền gửi của các ngân hàng. Khi các
ngân hàng phải tăng lãi suất huy động VND thì sẽ khó để tránh tăng lãi suất đầu
ra.
- Bản thân nội tại hệ thống ngân hàng vẫn còn tồn đọng nhiều vấn
đề chưa được giải quyết rốt ráo như xử lý nợ xấu, quản trị rủi ro vẫn còn chưa
đáp ứng quy định thông lệ quốc tế.
- Hoạt động tín dụng của các ngân hàng có thể sẽ được kiểm soát
chặt chẽ hơn từ năm 2019. Trong bối cảnh đó, muốn duy trì được lợi nhuận để đáp
ứng yêu cầu của cổ đông, buộc các ngân hàng phải tiết giảm chi phí hoạt động,
đồng thời đẩy mạnh các dịch vụ thu phí. Muốn như vậy các NHTM cần phải đi sâu
vào số hóa để giảm thiểu các chi phí về quản trị, quản lý, giảm thiểu nhân lực…
- Áp lực tăng vốn của các ngân hàng là rất lớn trong năm 2019, nhất là nhóm ngân hàng
nhỏ có vốn điều lệ từ 3.000 - 5.000 tỷ đồng khi mà Thông tư 41 quy định về tỷ lệ an toàn vốn
đối với ngân hàng với những yêu cầu khắt khe hơn theo chuẩn Basel 2 sẽ chính
thức có hiệu lực vào đầu năm 2020 và lộ trình
NHNN đề ra là đến năm 2020, hệ thống ngân hàng Việt Nam phải có từ 12 - 15 ngân
hàng đáp ứng chuẩn Basel II.
Để tăng vốn điều lệ, nâng
cao năng lực tài chính, bên cạnh chia cổ tức bằng cổ phiếu, thưởng cổ phiếu,
các ngân hàng cần thu hút thêm vốn cổ phần, trong đó có vốn ngoại. Hai ngân
hàng lớn là Vietcombank và BIDV cũng đang chuẩn bị tăng vốn điều lệ thông qua
việc chào bán cổ phiếu riêng lẻ. Trong đó, Vietcombank sẽ chào bán gần 360 triệu
cổ phiếu cho nhà đầu tư nước ngoài nhằm tăng vốn điều lệ thêm gần 3.600 tỷ đồng.
BIDV sẽ chào bán 603 triệu cổ phiếu cho một cổ đông chiến lược nước ngoài là
KEB Hana Bank.
Như
vây, trước những thách thức do tình hình kinh tế thế giới tác động và các yếu tố
nội tại, các ngân hàng Việt cần thực hiện nhiều giải pháp phù hợp với đặc điểm
và mục tiêu kinh doanh của mình nhằm nâng cao kết quả hoạt động kinh doanh
trong năm 2019. Về phía NHNN cần tiếp tục kiên trì điều hành chính sách tiền tệ
chủ động, linh hoạt, thận trọng, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và
các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm bảo đảm thanh khoản của các ngân hàng và
ổn định thị trường.
Ths.
Hoàng Thị Thanh Huyền
Bộ
môn TCNH – Khoa Kinh tế