XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG CỦA NGHỆ AN - VẤN ĐỀ VÀ GIẢI PHÁP

ThS Nguyễn Thị Thúy Quỳnh- BM QTKD

1.      Tầm quan trọng của xuất khẩu lao động đối với Nghệ An

Trong điều kiện quốc tế hoá và bùng nổ đầu tư trong giai đoạn hiện nay, xuất khẩu lao động (XKLĐ) đã dần trở thành một phần không thể thiếu của hệ thống kinh tế thế giới. Đảng và Nhà nước ta đã xác định xuất khẩu lao độnglà một lĩnh vực hoạt động kinh tế quan trọng của quốc gia đem lại những lợi ích kinh tế và xã hội đáng kể.XKLĐ góp phần mang lại nguồn thu ngoại tệ cho quốc gia, tăng thu nhập cho người lao động; giải quyết việc làm cho một bộ phận không nhỏ lao động trong nước; tăng cường quan hệ hợp tác giữa Việt Nam với các nước, củng cố và phát triển cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài hướng về tổ quốc, tạo sự ổn định cho xã hội…

Tỉnh Nghệ An có dân số đứng thứ 4 cả nước (dân số cả tỉnh có trên 3.022.300 người), quy mô lao động lớn, tiềm năng nguồn nhân lực dồi dào là một lợi thế lớn trong quá trình thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cũng như phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn. Mặt khác, quy mô dân số đông, lao động lớn đang tạo nên nhiều áp lực đối với vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động. Mặc dù thời gian qua, công tác giải quyết việc làm đã được Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh; các cấp, các ngành từ tỉnh đến các huyện, thành phố, thị xã và các cơ sở xã, phường, thị trấn triển khai thực hiện bằng nhiều giải pháp tạo việc làm hiệu quả như phát triển các làng nghề thủ công, xây dựng và mở rộng khu công nghiệp, giải quyết việc làm cho lao động sau khi thu hồi đất..., góp phần xóa đói giảm nghèo, ổn định chính trị, đảm bảo trật tự xã hội, quốc phòng an ninh và phát triển xã hội, nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của xã hội và người lao động, nhất là thiếu việc làm đối với người lao động đã tốt nghiệp các trường đại học, cao đẳng chuyên nghiệp. Lao động thiếu việc làm đã dẫn đến lãng phí nguồn nhân lực, ảnh hưởng đến quá trình phát triển kinh tế xã hội. Chính vì vậy xuất khẩu lao động có vai trò rất quan trọng đối với Nghệ An, là một trong những biện pháp hữu hiệu đã và đang được Nghệ An đẩy mạnh ở hiện tại và tương lai. Tại Nghị quyết 26 của Bộ Chính trị năm 2012 về phương hướng phát triển Nghệ An đến năm 2020 cũng đã khẳng định Thực hiện tốt chính sách xã hội và bảo đảm an sinh xã hội; tiếp tục hoàn thiện và thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất, tạo việc làm, đào tạo nghề, đưa người đi lao động ở nước ngoài, ưu tiên người nghèo, người dân tộc thiểu số các huyện nghèo, xã nghèo, thôn bản đặc biệt khó khăn”.

Trong giai đoạn 2014 – 2015, Nghệ An đưa được 1.000 lao động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, lao động là người dân tộc thiểu số, lao động là thân nhân chủ yếu của gia đình chính sách người có công với cách mạng và lao động thuộc hộ bị thu hồi đất nông nghiệp đi làm việc ở nước ngoài; hỗ trợ đào tạo lao động trình độ cao về kỹ năng nghề, ngoại ngữ và ngành nghề đặc thù cho khoảng 100 lao động đáp ứng yêu cầu của nước tiếp nhận lao động.

Kết quả thực hiện Chương trình việc làm giai đoạn 2010– 2015, đến nay toàn tỉnh đã tạo việc làm cho từ 35.000 – 37.000 lao động; trong đó: xuất khẩu lao động đạt bình quân mỗi năm từ 12.000 – 13.000 người lao động đi làm việc có thời hạn tại các nước (chiếm trên 1/3 số lao động giải quyết việc làm hàng năm) đưa tổng số lao động Nghệ An đang làm việc tại các nước lên hơn 55.000 người, chiếm gần 32%; Giảm tỷ lệ lao động thất nghiệp khu vực thành thị xuống 2,8%, nâng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động khu vực nông thôn lên 85%, góp phần tích cực để giảm sức ép về việc làm ở địa phương trong thời gian qua, giảm được tỷ lệ thất nghiệp ở địa phương. Ngoài số lao động xuất khẩu theo con đường “chính ngạch” có nghĩa là theo ký kết giữa các tổ chức Việt Nam với các tổ chức nước ngoài, thì ở Nghệ An còn có một số lượng không nhỏ lao động được xuất khẩu theo dạng “tiểu ngạch” và hình thức này cũng đã có những đóng góp quan trọng cho sự phát triển của đại phương.

So với thu nhập của người lao động cùng ngành nghề và trình độ trong nước thì thu nhập của lao động xuất khẩu Việt Nam nói chung và Nghệ An nói riêng cao hơn 2 - 4 lần. Ví dụ năm 2005, thu nhập trung bình của lao động ở  Đài Loan bình quân không dưới 400USD/tháng, tại Hàn Quốc bình quân từ 700-1000USD/tháng, Nhật Bản từ 1000USD – 1500USD/tháng, Trung Đông mức lương trung bình khoảng 300-500USD/tháng trong khi đó thu nhập của lao động trong nước ở mức khoảng hơn 3.8 triệu đồng/người/tháng. Thêm vào đó, lao động xuất khẩu chủ yếu là những người chưa có việc làm hoặc lao động phổ thông thì thu nhập của họ sẽ thấp hơn rất nhiều so với mức lương trung bình chung của xã hội.

Số tiền lao động xuất khẩu gửi về ngày càng tăng (cụ thể, năm 2011: 3.758.800đồng, năm 2012: 4.038.000 đồng, năm 2013: 4.335.200 đồng, năm 2014: 4.831.200 đồng) đã đóng một vai trò hết sức quan trọng trong xóa đói giảm nghèo, nâng cao mức sống cho người lao động, đặc biệt góp phần thực hiện chủ trương xây dựng nông thôn mới ở Nghệ An.

2. Đánh giá hoạt động xuất khẩu lao động của tỉnh Nghệ An giai đoạn 2005-2015

2.1. Thành tựu và nguyên nhân

            Để giải quyết việc làm Nghệ An đã rất chú trọng đến việc xuất khẩu lao động. Bảng 1 cho thấy số lượng lao động xuất khẩu qua các năm tăng lên.

Bảng 1.Số lương lao động xuất khẩu của tỉnh Nghệ An
giai đoạn 2005 - 2015

Đơn vị: người

Năm

Số lượng

Năm

Số lượng

2005

7.014

2011

13.364

2006

9.334

2012

13.707

2007

13.469

2013

11.671

2008

11.311

2014

12.366

2009

8.825

2015

12.800

2010

11.238

 

 

Tổng

125.099

                                                                                 Nguồn: Sở LĐTB&XH Nghệ An

Chỉ tính trong giai đoạn 2005 - 2015, toàn tỉnh đã đưa được 125.099 người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo hợp đồng (Cụ thể: năm 2005 là 7.014 người, năm 2011: 13.364 người, năm 2012: 13.707 người, năm 2013: 11.671 người và năm 2014: 12.366 người và năm 2015: 12.800).

Số lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng hàng năm chiếm trên 1/3 số lao động được giải quyết việc làm trong năm và Nghệ An luôn đứng đầu cả nước về kết quả xuất khẩu lao động. Hiện số lao động của tỉnh đang làm việc có thời hạn ở nước ngoài trên 55.000 người.

Cơ cấu lao động xuất khẩu cũng có sự thay đổi, với xu hướng lao động nữ xuất khẩu ngày càng tăng (xem bảng 2).

Bảng 2. Cơ cấu lao động xuất khẩu theo giới tính của Nghệ An

giai đoạn 2005 - 2015

Đơn vị tính: người

Năm

Số lượng

Theo giới tính

Nam

Nữ

2005

7.014

6.140

874

2006

9.334

8.219

1.115

2007

13.469

11.927

1.542

2008

11.311

10.069

1.242

2009

8. 825

7.804

1.021

2010

11.238

10.130

1.108

2011

13.364

10.465

2.899

2012

13.707

10.352

3.355

2013

11.671

8.863

2.808

2014

12.366

8.814

3.552

2015

12.800

8.913

3.887

Tổng

125.099

101.696

23.403

                                                                                   Nguồn: Sở LĐTB&XH Nghệ An

Tuy tỷ lệ lao động nữ có tăng lên nhưng vẫn còn thấp hơn nhiều so với nam giới. Dựa trên kết quả này, có thể thấy rằng trong thời gian tới Đảng và chính quyền tỉnh Nghệ An cần có sự quan tâm nhiều hơn nữa tới công tác xuất khẩu lao động cho những lao động nữ - một số lượng tương đối lớn lao động còn chưa có việc làm trong tỉnh. Tuy nhiên công việc mà những lao động nữ thường làm khi đi xuất khẩu lao động là giúp việc gia đình, trông trẻ, chăm sóc người bệnh, may mặc…nên thu nhập không cao, bởi vậy việcnâng cao thu nhập bằng cách mở rộng loại hình công việc cho lao động nữ xuất khẩu là một việc cần thiết.

Thị trường XKLĐ cũng đã có những thay đổi theo hướng tích cực (xem bảng 3).

 

Bảng3. Thị trường xuất khẩu lao động Nghệ An
giai đoạn
2005– 2015

(Đơn vị tính: nghìn người)

Năm

Tổng số

Chia ra theo thị trường

Đài Loan

Malaysia

Hàn Quốc

Nhật Bản

Trung Đông

N­ước khác

2005

7.014

2.141

2.507

660

62

88

1.556

2006

9.334

1.656

4.477

904

47

478

1.772

2007

13.469

2.135

5.463

562

121

1.193

3.995

2008

11.311

2.632

2.046

451

122

1.876

4.184

2009

8.825

1.665

1.144

775

126

888

4.227

2010

11.238

2.374

2.947

965

225

1.435

3.292

2011

13.364

2.355

4.222

2.087

250

1.009

3.441

2012

13.707

2.277

3.533

1.132

257

1.392

5.116

2013

11.671

2.884

3.299

800

561

1.536

2.591

2014

12.366

3.917

2.697

982

874

1.503

2.393

2015

12.800

4.012

2.100

1.100

2.000

1.542

2.046

Tổng

125.099

28.048

34.435

10.418

4.645

12.940

34.613

                                        Nguồn: Sở LĐTB&XH Nghệ An

Nếu trước năm 2010, xuất khẩu lao động Nghệ An tập trung vào các thị trường dễ tính, yêu cầu lao động chưa qua đào tạo như Đài Loan, Malaysia, thì sau năm 2010 thì XKLĐ được mở rộng sang các thị trường đòi hỏi tay nghề cao, thu nhập ổn định, đã qua đào tạo, có trình độ tay nghề và ngoại ngữ như Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Đông… Đây là sự chuyển biến tích cực cần được ghi nhận.

Hoạt động XKLĐ của Nghệ An thời gian qua đạt được nhiều kết quả tích cực do một số nguyên nhân sau đây:

-          Tỉnh Nghệ An đã có chủ trương, chính sách nhất quán về xuất khẩu lao động và đã có nhiều biện pháp hỗ trợ thiết thực cho hoạt động XKLĐ.Công tác mở rộng thị trường đã được đặc biệt quan tâm, mở rộng, ổn định các thị trường sẵn có và mở rộng sang các thị trường xuất khẩu lao động có thu nhập cao.

-          Chất lượng lao động xuất khẩuđã tăng được tỷ lệ lao động có tay nghề lên và mở rộng được sang những thị trường mới như các nước Trung đông, ý thức của người lao động đã tốt hơn nhờ có sự quan tâm đúng đắn của Nhà nước và các doanh nghiệp tới công tác đào tạo bồi dưỡng kiến thức cho người lao động.

-          Công tác đào tạo - bồi dưỡng kiến thức cũng đạt hiệu quả,  đa phần số lao động được xuất khẩu lao động đi nước ngoài đều được đào tạo - bồi dưỡng kiến thức trước khi xuất cảnh. Nội dung đào tạo - bồi dưỡng kiến thức đúng theo những yêu cầu và quy định cần thiết của pháp luật.

-          Doanh nghiệp xuất khẩu lao động ngày càng lớn mạnh về số lượng, quy mô và hiệu quả. Xét về mặt lập kế hoạch xuất khẩu lao động, hầu hết các doanh nghiệp và cơ sở đều đã lập được kế hoạch cho việc xuất khẩu lao động trên địa bàn tỉnh đi các nước theo từng năm và hoàn thành được kế hoạch của mình nhờ đó mà kế hoạch xuất khẩu lao động của tỉnh Nghệ An đã được hoàn thành và hoàn thành vượt mức.

-          Công tác quản lý lao động đã xuất khẩu cũng đã được quan tâm nhiều hơn. Một số doanh nghiệp đã có cơ quan đại diện ở nước ngoài hoặc một số thì đã cử cán bộ quản lý sang nước bạn nhằm quản lý chặt chẽ số lao động đã xuất khẩu của doanh nghiệp mình do đó đã giảm thiểu được một phần nào những tranh chấp cũng như biến cố bất thường xảy ra cả trong nước và ngoài nước.

2.2. Hạn chế và nguyên nhân

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt động XKLĐ của Nhệ An thời gian qua vẫn còn nhiều hạn chế như sau:

-          Số lượng lao động xuất khẩu tuy tăng nhưng chất lượng người lao động tham gia xuất khẩu lao động còn thấp:Tỷ lệ lao động phổ thông còn chiếm tỷ lệ cao, từ 60 - 70%, chỉ tính riêng năm 2014 chỉ có 3.985 lao động đã qua đào tạo trong tổng số 12.366 lao động xuất khẩu. Chất lượng lao động xuất khẩu còn được thể hiện ở tác phong công nghiệp, ý thức kỷ luật, văn hoá của người lao động. Tuy đã tập trung rất nhiều cho công tác bồi dưỡng kiến thức cho người lao động song về mặt này lao động của chúng ta còn rất yếu kém. Cụ thể là những hiện tượng vi phạm hợp đồng, bỏ trốn, cư trú bất hợp pháp ở nước ngoài của một bộ phận lao động những năm gần đây trở lên khá phổ biến, thậm chí có một số người còn ở nước ngoài sống cuộc sống buông thả, cờ bạc, rượu chè, hay gây sự,… vi phạm đến luật pháp nước sở tại. Hiện tượng người lao động tự ý hoặc thông qua môi giới bằng hình thức đi du lịch, thăm người thân, kết hôn giả… để sang một số nước như: Angola, Nhật Bản, Hàn Quốc, Austraylia, Canada, các nước Đông Âu làm việc không có hợp đồng lao động và cư trú bất hợp pháp còn diễn ra ở nhiều nơi. Tỷ lệ lao động bỏ trốn ở các thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan là cao nhất, so với lao động của các nước như Trung Quốc, Philipines, Indonexia, Thái Lan …thì tỷ lệ này của Việt nam nói chung là rất cao và số lao động đi xuất khẩu của tỉnh Nghệ An cũng không thể tránh khỏi tình trạng chung ấy.

-          Công tác quản lý lao động ở nước ngoài còn yếu kém nên khi có tranh chấp hoặc sự cố xảy ra người lao động phải chịu rất nhiều thiệt thòi không đáng có. Việc lao động vi phạm hợp đồng, vi phạm pháp luật của nước sở tại vẫn xảy ra. Đặc biệt là những hiện tượng người lao động bị ép buộc, lạm dụng vẫn còn xuất hiện mà chưa được xử lý, ngăn chặn kịp thời. Việc quản lý đối với lực lượng lao động xuất khẩu “tiểu ngạch” hầu như còn bị bỏ ngỏ.

-          Thủ tục pháp lý trong hoạt động xuất khẩu lao động nhiều khi rất rườm rà nhưng lại chưa chặt chẽ nên bị nhiều đối tượng lợi dụng làm thiệt hại cho các doanh nghiệp và bản thân người lao động. Sự phối hợp giữa chính quyền địa phương với cơ quan quản lý Nhà nước trong việc hướng dẫn luật doanh nghiệp chưa tốt. Điều này dẫn đến việc một số doanh nghiệp XKLĐ lợi dụng tuyển chọn lao động xuất khẩu trái pháp luật.

-          Cơ chế tài chính trong hoạt động XKLĐ của địa phương như thu, chi, quản lý dịch vụ, môi giới...chưa tạo điều kiện thuận lợi cho người dân.Một số quy định, chính sách của người lao động chưa phù hợp dẫn đến việc người lao động phải đóng những khoản chi phí rất lớn. Bên cạnh đó, trong chính sách hỗ trợ người lao động vay vốn, mặc dù ngân hàng Nhà nước đã có quyết định về việc cho người lao động vay nhưng quy trình cho vay ở các ngân hàng địa phương còn phức tạp, không rõ ràng. Điều này gây khó khăn cho người lao động khi tiếp cận nguồn hỗ trợ này.

Những hạn chế này xuất phát từ một số nguyên nhân sau đây:

-          Một là, quản lý nhà nước về XKLĐ trên địa bàn Nghệ An còn bất cập.

Tỉnh Nghệ An đang thiếu một chiến lược về XKLĐ bền vững, thiếu kế hoạch xuất khẩu lao động phù hợp, thiếu cơ chế, chính sách quản lý lao động trong quá trình xuất khẩu lao động và sau khi lao động xuất khẩu trở về. Hoạt động quản lý nhà nước của các cấp chính quyền địa phương về xuất khẩu lao động còn chưa đồng bộ, thiếu sự gắn kết giữa các chủ thể tham gia quản lý xuất khẩu lao động. Một số cấp ủy đảng, chính quyền chưa thật sự vào cuộc, chưa quan tâm đúng mức, chưa chỉ đạo quyết liệt công tác XKLĐ dẫn đến kết quả chưa cao.

-          Hai là, nhận thức về vai trò của XKLĐ chưa đầy đủ.

Công tác tuyên truyền trong các cơ quan nhà nước, doanh nghiệp và người dân về tầm quan trọng, vai trò, ý nghĩa của XKLĐ vẫn còn bị xem nhẹ; công tác tư vấn cho người lao động tại một số địa phương chưa tốt nhất là cấp xã, phường, thị trấn do đó nhiều lao động có nhu cầu đi xuất khẩu lao động chưa hiểu biết đầy đủ các chủ trương, chính sách, quy trình thủ tục và lợi ích đi xuất khẩu lao động.

-          Ba là, các tổ chức xuất khẩu lao động còn yếu kém.

Năng lực của các đơn vị xuất khẩu lao động vẫn chưa đáp ứng kịp thời và đầy đủ nhu cầu ngày càng gia tăng của các thị trường và cả của những người lao động trong khi đó không ít những trường hợp lừa đảo, lợi dụng danh nghĩa xuất khẩu lao động để làm việc trái pháp luật tình trạng cò mồi, lừa đảo, cư trú bất hợp pháp vẫn xảy ra trên địa bàn tỉnh. Một số doanh nghiệp xuất khẩu lao động chưa thực hiện tốt việc quản lý người lao động làm việc ở nước ngoài, không quan tâm đến việc bảo vệ quyền và lợi ích của lao động xuất khẩu, thực hiện không đúng theo hợp đồng ký kết làm mất niềm tin của người lao động vào công tác xuất khẩu lao động, từ đó gây khó khăn cho hoạt động xuất khẩu lao động của địa phương.

3. Giải pháp nâng cao chất lượng xuất khẩu lao động của Nghệ An đến năm 2020

3.1. Đổi mới quản lý nhà nước về XKLĐ, xây dựng chiến lược XKLĐ hiệu quả và bền vững

Cần đổi mới quan điểm về vai trò của XKLĐ đối với phát triển kinh tế trên địa bàn Nghệ An, phải coi XKLĐ không chỉ là mưu sinh, tìm việc làm mà phải coi mỗi người lao động xuất khẩu là một đại sứ hình ảnh cho Nghệ An ở nước ngoài. XKLĐ không phải là công việc đột xuất mà là một trong những nhiệm vụ trọng tâm lâu dài của tỉnh. Lãnh đạo tỉnh phải chỉ đạo ngay cho các cơ quan hữu quan của tỉnh xây dựng chiến lược XKLĐ tầm nhìn 2020. Trong chiến lược này phải đề ra mục tiêu, lộ trình, nguồn lực và các giải pháp chủ yếu. Trước mắt để từng bước hoàn thiện quản lý nhà nước đối với hoạt động XKLĐ, Nghệ An cần tiến hành một số công việc sau đây:

-          Một là, đổi mới cơ chế chính sách của Tỉnh về XKLĐ

Hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật có liên quan đến hoạt động xuất khẩu lao động như: các quy định về thủ tục, quy trình đăng ký hợp đồng, các chính sách như chính sách hỗ trợ xuất khẩu lao động, chính sách cho vay vốn nhằm đảm bảo tính đồng bộ và chặt chẽ của các văn bản, chính sách liên quan đến hoạt động xuất khẩu lao động. Xây dựng một kế hoạch cụ thể cho công tác xuất khẩu lao động của mình bao gồm: số lượng lao động xuất khẩu trong năm là bao nhiêu? Trong đó, số lao động đã qua đào tạo là bao nhiêu người? chiếm bao nhiêu phần trăm trong tổng số? Nguồn lao động chủ yếu tập trung ở địa phương nào? Thông qua kế hoạch này tiến hành đánh giá việc thực hiện kế hoạch cụ thể của từng tháng, từng quý và từng năm để từ đó có những biện pháp chấn chỉnh kịp thời.

Có chính sách giải quyết việc làm cho người lao động khi họ trở về nước để ổn định cuộc sống của bản thân họ và gia đình họ, thực hiện an sinh xã hội trong hoạt động xuất khẩu lao động. Những đối tượng còn có nhu cầu tiếp tục đi xuất khẩu lao động thì cũng phải có những chính sách hỗ trợ cho họ nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho họ có thể tiếp tục đi xuất khẩu lao động.

Đổi mới chính sách hỗ trợ cho các đối tượng chính sách, đối tượng nghèo, bộ đội xuất ngũ, đồng thời có những biện pháp quản lý chặt chẽ nguồn, quỹ hỗ trợ đó sao cho hợp lý và hiệu quả nhất; quản lý chặt chẽ và chỉ đạo đúng đắn cho công tác đào tạo nghề, đào tạo bồi dưỡng kiến thức cho người lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài sao cho chất lượng lao động xuất khẩu ngày càng được nâng cao hơn nữa. Hoàn thiện các điều kiện cấp phép cho các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu lao động nhằm nâng cao tính pháp lý của họ và hạn chế tình trạng lừa đảo, lợi dụng người lao động. Qua hoạt động cũng cần thiết phải có những biện pháp khuyến khích, biểu dương đối với những doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, có biện pháp mạnh đối với những doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả để đảm bảo lợi ích cho cả Nhà nước và cả người lao động.

Thực hiện các biện pháp hữu hiệu nhằm giải quyết những tranh chấp về lao động trong nước và đặc biệt là ở nước ngoài sao cho phù hợp với luật pháp nước sở tại và luật pháp quốc tế đảm bảo tối thiểu thiệt hại cho người lao động. Tăng cường hoạt động và tầm ảnh hưởng của các cơ quan đại diện Việt Nam tại nước ngoài như các Đại Sứ quán Việt Nam tại các nước và những cơ quan đại diện quản lý người lao động ở trong nước như Cục quản lý lao động ngoài nước.

-          Hai là, nâng cao năng lực quản lý và cán bộ các cấp

Sở Lao động thương binh và xã hội, cơ quan trực tiếp có trách nhiệm quản lý đối với hoạt động xuất khẩu lao động thì phải thực hiện tốt các kế hoạch chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân tỉnh từ đó xây dựng những kế hoạch trình tỉnh uỷ, chỉ đạo các cơ quan phụ trách chuyên môn, các phòng chuyên trách cấp huyện thực hiện tốt kế hoạch đề ra; Sở cũng có trách nhiệm trực tiếp theo dõi tình hình biến động trên thị trường xuất khẩu lao động để có những biện pháp chỉ đạo mới thích hợp, quản lý hoạt động xuất khẩu lao động của các doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn tỉnh để đảm bảo tính hợp pháp của công tác xuất khẩu lao động. Chấn chỉnh, sắp xếp, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý. Tăng cường các hoạt động hợp tác quốc tế, mở rộng và tăng cường mối quan hệ ngoại giao giữa các quốc gia để tìm kiếm những thị trường mới nhiều tiềm năng.

Hoàn thiện tổ chức bộ máy và biên chế của các cơ quan quản lý về xuất khẩu lao động phù hợp với tình hình thực tiễn. Trong những trường hợp đặc biệt, có thể tùy tình hình để thành lập các bộ phận chuyên trách mới để giải quyết các vấn đề phức tạp phát sinh trong quá trình xuất khẩu lao động. Định kỳ đánh giá về năng lực quản lý về xuất khẩu lao động, học hỏi mô hình quản lý lao động hiệu quả ở các địa phương khác...

-          Ba là, thúc đẩy phát triển thị trường xuất khẩu lao động

Tỉnh cần nâng cao năng lực nghiên cứu, phân tích và dự báo về thị trường xuất khẩu lao động. Việc nâng cao năng lực nghiên cứu, phân tích và dự báo về thị trường xuất khẩu lao động giúp địa phương xác định rõ nhu cầu tuyển dụng lao động của thị trường cả về số lượng, yêu cầu, chất lượng lao động...từ đó có thểtừng bước lập kế hoạch và tăng thị phần với từng loại thị trường (thị trường có thu nhập cao, thị trường tiềm năng ổn định tiếp nhận nhiều lao động Việt Nam, các thị trường mới...). Để làm tốt công tác này thì địa phương cần:

Định hướng cho DN XKLĐ chủ động phát triển thị trường và có chiến lược dài hạn, tăng cường xúc tiến, mở rộng thị trường, tìm kiếm đối tác và ký hợp đồng xuất khẩu lao động. Trên cơ sở đánh giá nhu cầu và yêu cầu của từng thị trường theo ngành nghề, yêu cầu, giới tính... và xem xét khả năng đáp ứng nhu cầu và yêu cầu đó của địa phương để xây dựng kế hoạch cho từng thị trường cụ thể. Xây dựng kế hoạch khuyến khích xuất khẩu lao động cho từng thị trường, tập trung vào một số thị trường thu nhập cao theo xu hướng hội nhập và toàn cầu hóa.

Đa dạng hóa các hình thức đi làm việc ở nước ngoài, đa dạng hóa ngành nghề, trình độ...để có thể xâm nhập vào nhiều thị trường xuất khẩu lao động khác nhau, tăng cương chiếm lĩnh các thị trường ngách mà lao động Nghệ An có thế mạnh.

-          Bốn là, nâng cao sự phối hợp và trách nhiệm giữa các chủ thể tham gia vào hoạt động xuất khẩu lao động

Các Sở, ban, ngành có liên quan khác của tỉnh như cơ quan Công An, Ngân Hàng, Sở Tài chính phải phối hợp hoạt động với Sở Lao động - TB và XH tỉnh nhằm quản lý tốt các khâu, các bước trong quá trình quản lý hoạt động xuất khẩu lao động. Các tổ chức chính trị xã hội trong địa bàn tỉnh như: Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên cũng cần phải phối hợp cùng với các cơ quan nhà nước một mặt nâng cao nhận thức và hiểu biết cho người lao động, một mặt nâng cao hiệu quả quản lý của các cơ quan nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu lao động.

Tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra, thanh tra cũng như sự phối hợp chặt chẽ giữa các ban, ngành trong công tác này nhằm hạn chế những tiêu cực và nâng cao hiệu quả thực sự. Song song với đó, sẽ xây dựng một lộ trình sắp xếp phát triển các doanh nghiệp xuất khẩu lao động theo định hướng, tiêu chí của Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, đặc biệt là đầu tư phát triển, tăng cường năng lực cũng như trách nhiệm của các doanh nghiệp trong công tác xuất khẩu lao động.

Các cấp ủy đảng, chính quyền từ tỉnh đến cơ sở tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả các giải pháp công tác xuất khẩu lao động. Hàng năm, đưa chỉ tiêu xuất khẩu lao động vào chỉ tiêu phát triển kinh tế xã hội chung của địa phương, nhất là cấp huyện và cấp xã. Cùng với việc triển khai thực hiện các giải pháp giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo bền vững, phấn đấu hàng năm đưa từ 12.000 - 14.000 lao động của Nghệ An đi làm việc có thời hạn tại các nước góp phần thực hiện chỉ tiêu giải quyết việc làm theo kế hoạch đề ra trong những năm tiếp theo.

Các ngành chức năng, các cấp ủy, chính quyền địa phương cần tiếp tục tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, giám sát đối với hoạt động xuất khẩu lao động. Kịp thời phát hiện, xử lý và đề nghị xử lý nghiêm túc đối với tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật trong hoạt động xuất khẩu lao động.

-          Năm là, thúc đẩy công tác đào tạo, tạo ra nguồn lao động có chất lượng cao cho hoạt động XKLĐ

Phát triển hệ thống trường lớp đào tạo nghề nhằm cung cấp lao động có chuyên môn, có tay nghề cho nguồn xuất khẩu lao động. Cần xây dựng đội ngũ giáo viên có chuyên môn nghiệp vụ để đảm bảo công tác đào tạo lao động xuất khẩu đáp ứng tiêu chuẩn. Cần tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, các thiết bị học tập, tăng cường phòng thực hành nhằm phục vụ cho các cơ sở đào tạo giáo dục định hướng thực hiện việc đổi mới các hình thức đào tạo, nâng cao chất lượng đào tạo, giáo dục, định hướng.

Đào tạo ngoại ngữ cho người lao động là một trong những vấn đề đáng quan tâm của lao động xuất khẩu Nghệ An nói riêng và cả nước nói chung. Trên thực tế, việc đào tạo ngoại ngữ cần thời gian tương đối dài, trong khi trên thực tế việc đào tạo ngoại ngữ lại trong một thời gian ngắn, yêu cầu cao, lao động xuất khẩu là các đối tượng rất khó tiếp thu ngoại ngữ. Chính vì vậy trong vấn đề đào tạo ngoại ngữ cho lao động xuất khẩu phải đặc biệt quan tâm, lựa chọn phương án thiết thực nhất để đạt được hiệu quả cao nhất như: tăng cường thời lượng học ngoại ngữ cho lao động xuất khẩu, nội dung đào tạo ngoại ngữ phải gắn liền với nhu cầu thực tiễn, nâng cao số bài học thực tế, tăng cường kỹ năng giao tiếp. Cần trang bị cho lao động xuất khẩu một số tài liệu giúp họ có thể thực hiện giao tiếp hàng ngày, dễ dàng tự học khi họ có thời gian rảnh rỗi. Đồng thời, cần lồng ghép chương trình học ngoại ngữ vào các trường nghề, góp phần xây dựng nguồn lao động xuất khẩu chất lượng cao trong tương lai.

Chính quyền tỉnh cần có chính sách ưu tiên cho việc tuyển chọn lao động tại các trường đào tạo nghề uy tín, chất lượng, đáp ứng được nhu cầu của các nhà sử dụng lao động ở nước nhập khẩu.

3.2. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến thông tin, nâng cao nhận thức về xuất khẩu lao động

Trước khi người lao động đi xuất khẩu lao động, cần khơi dây trong họ lòng tự hào dân tộc, lòng yêu nước, để họ tránh những hành vi gây ấn tượng không tốt về lao động Nghệ An nói riêng và con người Việt Nam nói chung.Phải làm cho người lao động nhận thức một cách đúng đắn về hoạt động xuất khẩu lao động, nắm rõ những quy định của nhà nước về hoạt động này để xác định rõ ràng rằng mình đi lao động chứ không phải là đi du lịch từ đó có ý thức lao động và tuân thủ kỷ luật lao động. Nhận thức rõ hơn nữa những hậu quả sẽ phải trả giá nếu vi phạm hợp đồng hoặc pháp luật của Việt Nam và nước sở tại.

Nâng cao trình độ học vấn cho người lao động thông qua việc tích cực học tập rèn luyện trong nhà trường. Hệ thống giáo dục là nơi không chỉ rèn luyện và trau dồi học vấn, kiến thức cho người lao động mà còn là nơi nuôi dưỡng ước mơ, hoài bão cũng như nâng cao phẩm chất đạo đức, nhân cách cho người lao động do đó không chỉ Nhà nước cần quan tâm chú ý tới công tác này mà bản thân người lao động cũng cần phải chú ý nhiều hơn nữa đến việc học tập rèn luyện của bản thân.

Người lao động phải nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật và tay nghề thông qua việc tham gia vào các lớp đào tạo nghề. Việc này không phải là chờ các doanh nghiệp tới tuyển dụng hay Nhà nước ra chính sách thì người lao động mới bắt đầu đi học mà người lao động cần phải chủ động tham gia vào các khoá đào tạo nghề để nâng cao trình độ chuyên môn của bản thân, chuẩn bị cho việc đăng ký tuyển mộ, tuyển chọn đi lao động xuất khẩu.Nâng cao trình độ ngoại ngữ, ý thức kỷ luật, tác phong công nghiệp cho người lao động thông qua các lớp học tiếng nước ngoài và các chương trình đào tạo - bồi dưỡng kiến thức của các đơn vị xuất khẩu lao động tổ chức.

Người lao động cần phải thường xuyên liên hệ với các cơ quan đại diện Việt Nam tại nước sở tại và cơ quan đại diện hoặc người quản lý của doanh nghiệp xuất khẩu lao động để khi cần thiết có thể giải quyết những tranh chấp hoặc sự cố xảy ra.Khi trở về nước, người lao động phải thực hiện tốt những nghĩa vụ khai báo, làm thủ tục cần thiết với cơ quan Nhà nước để nhập cảnh trở về quê hương và liên hệ với doanh nghiệp để làm thủ tục chấm dứt hợp đồng. Về với gia đình, người lao động cần phải tích cực tìm kiếm việc làm cho bản thân và sử dụng hợp lý khoản thu nhập mà bản thân dành dụm được trong thời gian lao động ở nước ngoài. Tích cực tìm kiếm việc làm để ổn định cuộc sống chứ không được có tư tưởng có tiền rồi không phải làm gì.

Các doanh nghiệp xuất khẩu lao động cần phải:

-          Cung cấp cho lao động xuất khẩu các thông tin cần thiết, pháp luật nước nhập khẩu và tuyệt đối chấp hành pháp luật nước đó, thực hiện kỷ luật lao động, tác phong công nghiệp, tuân thủ theo đúng nội quy và quy định nơi làm việc, thực hiện nếp sống văn minh, giữ gìn vệ sinh nơi làm việc...

-          Nhắc nhở lao động tránh các hành động như bãi công, đình công, đánh nhau, tụ tập gây mất trật tự nơi công cộng, tránh xa các tệ nạn xã hội...gây ảnh hưởng đến hình ảnh lao động Việt Nam ở nước ngoài. Nâng cao tinh thần học hỏi đồng nghiệp, chia sẻ và tiếp thu ý kiến của đồng nghiệp, nâng cao kỹ năng làm việc nhóm, giúp đỡ đồng nghiệp khi gặp khó khăn.

-          Đào tạo người lao động hiểu biết về vấn đề an toàn lao động để đảm bảo an toàn cho bản thân họ và đồng nghiệp trong quá trình làm việc.Đồng thời, hướng dẫn người lao động biện pháp xử lý trong trường hợp họ phải đối mặt với các vấn đề phát sinh, rủi ro có thể gặp phải khi làm việc ở nước ngoài, giúp họ lường trước được những vấn đề xảy ra, định hướng và chủ động trong cách xử lý.

-          Tư vấn cho lao động xuất khẩu về vấn đề lựa chọn ngành nghề và thị trường phù hợp với sức khỏe, năng lực chuyên môn và khả năng trang trải chi phí của họ, đồng thời cảnh báo về các ngành nghề có độ rủi ro cao như công nhân công trình xây dựng, thuyền viên, những công việc trong nhóm 3D-jobs (Dirty, Dangerous và Difficult)...

Chính quyền các cấp từ Tỉnh đến huyện, xã cần tổ chức thường xuyên các khóa tuyên truyền phổ biến thông tin đầy đủ cho người lao động xuất khẩu bao gồm các thông tin về thị trường lao động, thủ tục xuất khẩu lao động, quyền và nghĩa vụ của người lao động khi tham gia vào xuất khẩu lao động, nâng cao ý thức người lao động tiết kiệm trong quá trình sống và làm việc ở nước ngoài, đặc biệt là những lao động xuất khẩu ở lứa tuổi trên 20.

Cần tăng cường giáo dục cho người lao động xuất khẩu về thái độ học hỏi, tiếp thu, tự thay đổi bản thân để có thể hòa nhập và thích nghi với môi trường văn hóa nước nhập khẩu lao động, hạn chế các xung đột xảy ra do sự thiếu hiểu biết về phong tục, tập quán cũng như văn hóa nước nhập khẩu lao động. Giáo dục cho lao động xuất khẩu nội quy, quy định, kỷ luật, văn hóa nước nhập khẩu và cách giải quyết các vấn đề phát sinh khi sinh sống ở nước ngoài. Cần làm rõ quyền lợi và nghĩa vụ của người lao động khi tham gia xuất khẩu lao động, thêm các điều khoản về quyền lợi và trách nhiệm của họ khi thanh lý hợp đồng; bổ sung các nội dung giáo dục, định hướng cụ thể, rõ ràng cho người lao động hiểu rõ tác hại của việc bỏ trốn.

3.3. Nâng cao chất lượng hoạt động của doanh nghiệp  xuất khẩu lao động

Các doanh nghiệp XKLĐ là một trong những nhân tố quan trọng quyết định thành công của hoạt động XKLĐ tại địa phương. Các doanh nghiệp này cũng cần phải xây dựng chiến lược kinh doanh XKLĐ bài bản, theo hướng bền vững chứ không kinh doanh theo lợi ích trước mắt, chụp giật. Trước mắt các DN XKLĐ cần tập trung các vào các biện pháp nhằm nâng cao số lượng và chất lượng cho lao động xuất khẩu. Cần chủ động tăng cường các hoạt động marketing để tìm kiếm và mở rộng thị trường. Doanh nghiệp phải xác định được những thị trường nào đang có nhu cầu cao về lao động, những thị trường nào đã bão hoà, những thị trường nào có tiềm năng để từ đó có những biện pháp thúc đẩy hoặc hạn chế xuất khẩu lao động sang từng thị trường. Nghiên cứu, tìm hiểu kỹ nguồn lao động của doanh nghiệp từ đó có những biện pháp thu hút người lao động tham gia vào quá trình tuyển mộ, tuyển chọn, nắm rõ những đặc điểm của lao động ở từng địa phương để có kế hoạch đào tạo cho phù hợp. Đặc biệt là các doanh nghiệp cần phải nắm rõ được những đối thủ cạnh tranh của mình ở trong nước cũng như ngoài nước để xem đối thủ nào mạnh, đối thủ nào yếu, đối thủ nào ngang sức để đối phó kịp thời.

Doanh nghiệp cần phải xây dựng một kế hoạch xuất khẩu lao động theo đúng yêu cầu của thực tế và của bản thân doanh nghiệp. Bản kế hoạch này phải chỉ ra được rằng trong năm này, quý này, tháng này doanh nghiệp sẽ phải đưa được bao nhiêu lao động đi làm việc có thời hạn tại từng nước cụ thể? Bản kế hoạch này cũng chỉ ra rằng doanh nghiệp cần phải tập trung phát triển những thị trường nào? Yêu cầu của các thị trường ấy ra sao từ đó đề ra các phương hướng tuyển chọn, đào tạo lao động một cách phù hợp nhất. Bản kế hoạch của doanh nghiệp cũng phải chỉ ra nguồn cung lao động chủ yếu của doang nghiệp tập trung tại đâu? Yêu cầu đối với lao động trên thị trường đó như thế nào?

Để nâng cao chất lượng lao động doanh nghiệp phải sử dụng các biện pháp sau:

-          Các doanh nghiệp XKLĐ cần nâng cao chất lượng đào tạo - bồi dưỡng kiến thức cho người lao động bằng cách sửa đổi, bổ sung thêm những nội dung thiết thực vào trong giáo trình đào tạo, có cơ chế ưu tiên đối với những lao động có tay nghề cao, đã qua dào tạo. Đồng thời nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cũng như hiểu biết cho đội ngũ cán bộ giảng dạy cũng như cán bộ làm công tác tuyển mộ, tuyển chọn.Các doanh nghiệp cũng phải có những biện pháp nhằm bồi dưỡng, nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ của doanh nghiệp làm công tác xuất khẩu lao động đặc biệt là các cán bộ quản lý trong và ngoài nước. Đội ngũ cán bộ này không những phải giỏi về trình độ học vấn, trình độ quản lý, ngoại ngữ mà còn cần có những hiểu biết nhất định về pháp luật của nước ta cũng như các nước tiếp nhận lao động của doanh nghiệp và luật pháp quốc tế cũng như về mặt phẩm chất đạo đức, nhân cách.Doanh nghiệp cũng phải đầu tư vốn cho việc xây dựng các cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật của doanh nghiệp mình để đảm bảo hiệu quả cho công tác tuyển chọn, tuyển mộ, đào tạo - bồi dưỡng kiến thức cho người lao động.

-          Công khai hoạt động tài chính của doanh nghiệp đặc bịêt là các khoản đóng góp của người lao động nhằm minh bạch hoá chế độ tài chính của doanh nghiệp, tránh hiện tượng lừa đảo, gian lận tài chính cũng là để Nhà nước và người lao động tin tưởng vào năng lực thực sự của doanh nghiệp.

-          Do lao động xuất khẩu của tỉnh Nghệ An có nhiều nữ giới và với những công việc như: thợ may, giúp việc gia đình, trông trẻ, chăm sóc người bệnh nên các doanh nghiệp có lao động đưa đi làm trong các lĩnh vực này cần có các biện pháp đào tạo nghiệp vụ cho lao động như mở các lớp dạy nấu ăn, nữ công gia chánh, những lớp đào tạo sơ bộ về y tế để chăm sóc người già, người bệnh, đồng thời có các biện pháp hỗ trợ giúp đỡ gia đình của các chị em trong thời gian vắng nhà để họ yên tâm hơn trong công việc của mình.

-          Phối hợp với các trung tâm giới thiệu việc làm trong việc tuyển chọn và đào tạo giáo dục lao động. Kết hợp với các cơ sở y tế, bệnh viện để tiến hành kiểm tra sức khoẻ cho người lao động. Doanh nghiệp cần xây dựng một hệ thống các tiêu chuẩn tuyển chọn lao động.

-          Doanh nghiệp cũng phải thường xuyên báo cáo định kỳ và phối hợp chặt chẽ với các cơ quan Nhà nước hữu quan như Cục quản lý lao động ngoài nước, Sở LĐTB&XH tỉnh để cùng quản lý chặt chẽ hoạt động tuyển mộ, tuyển chọn, đào tạo - bồi dưỡng kiến thức cho người lao động tránh những hiện tượng tiêu cực.

-          Doanh nghiệp phải có những chính sách hỗ trợ chi phí cho người lao động thuộc diện khó khăn, ưu tiên đối với các đối tượng thuộc diện chính sách, diện nghèo,… theo đúng quy định của pháp luật.

 Khi lao động làm việc ở nước ngoài doanh nghiệp phải thường xuyên theo dõi, giám sát, quản lý việc thực hiện hợp đồng của lao động bằng nhiều cách khác nhau. Có thể liên hệ với bên chủ sử dụng lao động và trực tiếp với người lao động theo định kỳ hàng tháng hoặc hàng quý đối với những thị trường có ít lao động. Với những thị trường có nhiều lao động, doanh nghiệp phải mở văn phòng đại diện và cử cán bộ có đủ năng lực sang nước đó để trực tiếp quản lý lao động. Trong trường hợp có tranh chấp hoặc biến cố xảy ra thì cán bộ phụ trách quản lý đó phải có trách nhiệm giải quyết, đảm bảo quyền lợi cho cả hai bên là chủ sử dụng và đặc biệt là lao động. Nếu tranh chấp hoặc sự cố xảy ra cán bộ quản lý phải báo cáo ngay với cơ quan chủ quản, Cục quản lý lao động ngoài nước và cơ quan đại diện phía Việt Nam ở nước sở tại để cùng phối hợp giải quyết.

Doanh nghiệp XKLĐ cần phải xây dựng một hệ thống những biện pháp xử lý đối với những người lao động vi phạm hợp đồng như đơn phương chấm dứt hợp đồng, tự động trở về nước, bỏ trốn, cư trú bất hợp pháp bên nước bạn như yêu cầu đặt tiền đặt cọc, quản lý chặt chẽ chế độ tiền lương cũng như việc chu chuyển tiền về nước của lao động để dăn đe và ngăn chặn, hạn chế tối thiểu những thiệt hại do người lao động gây ra cho bản thân doanh nghiệp và chủ sử dụng lao động nước ngoài.Doanh nghiệp XKLĐ cũng phải có trách nhiệm hơn nữa với lao động khi lao động trở về nước trong việc hoàn tất thủ tục cho người lao động cũng như thủ tục cho họ gia hạn hợp đồng hoặc ký kết hợp đồng mới nếu họ có nhu cầu./.

 

Tài liệu tham khảo

I. Tiếng Việt

1. Vũ Tuấn Anh, Nguyễn Thu Hòa, Xuất khẩu lao động để giảm nghèo: Tình hình và triển vọng, Viện Kinh tế Việt Nam, 2008.

2. Lê Xuân Bá, Nguyễn Thị Kim Dung, Trần Hữu Hân, Một số vấn đề về phát triển thị trường lao động ở Việt Nam, NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội, 2003.

3. Nguyễn Thị Hồng Bích, Xuất khẩu lao động ở một số nước Đông Nam Á - Kinh nghiệm và bài học, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 2007.

4. Nguyễn Ngọc Bình, Trần Sỹ Luận, Bước đầu đánh giá hiệu quả kinh tế từ việc đi xuất khẩu lao động Việt Nam tại một số thị trường nước ngoài, Tạp chí Khoa học lao động và xã hội, số 30 - Quý I/2012.

5. Đỗ Minh Cương, Mạc Văn Tiến, Phát triển lao động kỹ thuật ở Việt Nam: Lý luận và thực tiễn, NXB Lao động - xã hội, Hà Nội, 2004.

6. Đường Vĩnh Cường, Toàn cầu hóa kinh tế cơ hội và thách thức, NXB Thế giới mới, 2004.

7. Daniele Belanger, Lê Bạch Dương, Trần Giang Linh, Khuất Thu Hồng, Nguyễn Thị Vân Anh, Belinda Hammoud, Lao động di cư từ Việt Nam đến các nước Châu Á 2000-2006, Trung tâm Nghiên cứu phát triển quốc tế, Canada (IDRC), 2009.

8. Diễn đàn lao động di cư ASEAN lần thứ 3 (2010), Tài liệu hội thảo về tăng cường nhận thức và các dịch vụ thông tin để bảo vệ quyền của lao động di cư (Hà Nội, 2010

9. Nguyễn Duy Dũng, Đào tạo và quản lý nhân lực (kinh nghiệm Nhật Bản, Hàn Quốc và những gợi ý cho Việt Nam), NXB Từ điển Bách Khoa Hà Nội, 2008. .

10. Phạm Đại Đồng, Nâng cao chất lượng nguồn lao động kỹ thuật trong bối cảnh hội nhập, Tạp chí lao động xã hội, số 332, tr.37, 2008.

11. Phan Huy Đường, Quản lý Nhà nước về xuất khẩu lao động ở Việt Nam, 2010.

12. Phan Huy Đường, Quản lý Nhà nước về lao động nước ngoài chất lượng cao ở Việt Nam, 2012.

13. Nguyễn Thanh Hòa, Xuất khẩu lao động trong xu hướng hội nhập-cơ hội và thách thức, Tạp chí lao động-xã hội, số 264, tr13, 2005.

14. Nguyễn Thị Lan Hương, Khảo sát tình hình lao động đi làm việc ở nước ngoài đã trở về Việt Nam, Đề tài Hợp tác trong nước, 2011.

15. Nguyễn Đình Kháng, Một số vấn đề trong hoạt động xuất khẩu lao động của Việt Nam sang khu vực Đông Nam Á thời gian qua, nghiên cứu Châu Phi và Trung Đông, 2007.

16. Nguyễn Phúc Khanh, Xuất khẩu sức lao động với Chương trình quốc gia về việc làm - Thực trạng và giải pháp, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Trường Đại học ngoại thương, Hà Nội, 2004.

II. Tiếng Anh

17.  ADB, ILO (2014), Driving competitiveness and prosperity in Viet Nam through better jobs and deeper ASEAN integration, Viet Nam Country Brief

18.  ADB Intitute (2008),“Regional Conference on Services Trade Liberalization and Labor Migration Policies in ASEAN: Towards the ASEAN Economic Community”, Thailand.

19. ASEAN (2011).ASEANIntellectualPropertyRightsActionPlan2011-2015.ASEAN

20. ASEAN (2012).ASEANEconomicCommunityScorecard:Chartingprogresstowardregionaleconomicintegration,PhaseI(2008-2009)andPhaseII(2010-2011.Jakarta,ASEANSecretariat.