VAI
TRÒ HỘ GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI TỰ TẠO VIỆC LÀM
CỦA LAO ĐỘNG NÔNG THÔN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NGHỆ AN
Hồ Thị Diệu Ánh
Tóm tắt:
Nghiên cứu được thực hiện nhằm
mục tiêu xác định các nhân tố thuộc về hộ gia đình có ảnh hưởng đến khả năng tự
tạo việc làm phi nông nghiệp của lao động nông thôn trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
Dữ liệu nghiên cứu được thu thập từ 675 lao động nông thôn trên địa bàn tỉnh
Nghệ An (lựa chọn 4 huyện đại diện cho các vùng địa lý của khu vực nghiên cứu).
Thông tin thu thập được kiểm định thông qua mô hình Binary Logistic. Kết quả phân
tích cho thấy các yếu tố thuộc về hộ gia đình có ảnh hưởng lớn đến tự tạo việc
làm phi nông nghiệp của lao động nông thôn trên địa bàn tỉnh Nghệ An bao gồm:
(1) Sự hỗ trợ của hàng xóm, (2) Sử dụng vốn vay của họ hàng, (3) Vốn của bạn bè
trong xã, (4) Gia đình có đất đai nhà xưởng và (5) Ảnh hưởng của bạn bè. Nghiên
cứu mong muốn sẽ góp phần tích cực vào việc thay đổi nhận thức gia đình đối với
khả năng tự tạo việc làm của lao động nông thôn.
Từ khóa: Hộ gia đình, Tự tạo việc
làm, Lao động nông thôn
The role of households for self-employment
of rural labor force in Nghe An province
Abstract
The
study was conducted to determine the objectives of the factors that affect
household ability to self-employment of rural labor force in Nghe An province.
Research data were collected from 675 rural workers in Nghe An province
(selecting 4 districts representing geographical areas of the study area).
Collected information is accredited through Binary Logistic model. The
analytical results show that the elements of the household has a great
influence on self-employment of rural labor force in Nghe An province,
including: (1) The support of neighbors, (2) using the loan from relatives, (3)
Capital of friends in the province, (4) Family with land and premises (5)
effect of friends. The research hopes to contribute positively to the changing
perceptions towards family self-employment of rural labor.
Keyword:
Household, self-employment, rural labor
1. Giới
thiệu
Tự tạo việc làm phi nông nghiệp
là một xu hướng phát triển tất yếu của lao động nông thôn hiện nay. Tự tạo việc
làm có mối quan hệ chặt chẽ với phát triển kinh tế của một địa phương. Ngô Quỳnh
An (2012) đã xác định: “Về mặt lý luận, tự
tạo việc làm là quá trình người lao động tự tổ chức kết hợp sức lao động của bản
thân và những người khác với tư liệu sản xuất mà họ sở hữu hay tự bỏ chi phí đầu
tư nhằm đem lại thu nhập hợp pháp. Trong thực tế, tự
tạo việc làm của người lao động là
quá trình họ tự tạo ra, chịu trách nhiệm tổ chức và thực hiện các hoạt động lao
động đem lại nguồn thu nhập hợp
pháp, mà với những hoạt động này người lao động tự đầu tư chi phí và hưởng toàn
bộ lợi nhuận thu được ứng với chi phí họ đầu tư”. Tự tạo việc làm thành công
sẽ tạo điều kiện cung cấp các cơ hội việc làm mang lại thu nhập cho lao động
nông thôn, góp phần làm phát triển kinh tế hộ gia đình, kinh tế địa phương. Thực
hiện quá trình tự tạo việc làm phi nông nghiệp vai trò của hộ gia đình có những tác động cơ bản.
Người thân, họ hàng, bạn bè trong và ngoài xã có những tác động đến tự tạo việc
làm của lao động nông thôn. Những công việc người thân đang làm có ảnh hưởng
đáng kể đến lao động nông thôn. Người thân giúp lao động nông thôn trong các định
hướng xác định công việc, ngoài ra nếu có điều kiện còn hỗ trợ về tài chính để
có thể phát triển công việc.
2.
Phương
pháp nghiên cứu
2.1.
Cơ sở lý thuyết và
mô hình nghiên cứu
Lý thuyết hành vi kế hoạch của Ajzen (1991) cho rằng ý định thực hiện một
hành vi chịu tác động của 3 yếu tố: thái độ của cá nhân, quy chuẩn chủ quan và
nhận thức kiểm soát hành vi. Trong đó quy chuẩn chủ quan liên quan đến việc người
khác (gia đình, bạn bè …) cảm thấy như thế nào khi thực hiện hành vi. Theo Dewit
(1993) nền tảng gia đình là quan trọng trong việc quyết định lựa chọn giữa tự
tạo việc làm và làm công. Nhiều nhà nghiên cứu nhấn mạnh tới tác động của nghề
nghiệp và học vấn của cha mẹ tới khuynh hướng tự tạo việc làm. Các nghiên cứu
cho thấy ảnh hưởng đáng kể của nghề nghiệp của người cha tới sự lựa chọn nghề
nghiệp của con cái. Một người có nhiều khả năng tự tạo việc làm nếu cha anh ta
cũng tự tạo việc làm. Cũng theo Dewit một người có xu hướng chấp nhận rủi ro để
có được lợi ích cao hơn nếu bạn đời của họ cũng làm việc và có thu nhập ổn
định.
Ở Việt Nam,
nghiên cứu của Đỗ Thị Quỳnh Trang, Gerard Duchene (2008) đã tìm thấy bằng chứng
cho rằng, mặc dù đối với nam giới thì tình trạng hôn nhân và số con không ảnh
hưởng đến lựa chọn tự tạo việc làm của họ, đối với phụ nữ, số con của họ làm
tăng khả năng lựa chọn tự làm. Nghiên cứu của James (1998) đã khẳng định nếu
gia đình có tỷ lệ số người tự tạo việc làm cao thì cơ hội lựa chọn tự tạo việc
làm của các thành viên khác cũng cao hơn. Linda Yueh (2009) cũng đã đưa ra ý
kiến tương tự khi nghiên cứu tự tạo việc làm của nông thôn Trung Quốc, một
người quyết định khởi sự doanh nghiệp khi có bạn bè hay người thân trong gia
đình đang kinh doanh. Ngô Quỳnh An (2012) đã khẳng định vai trò của gia đình là
quan trọng nhất trong việc hỗ trợ khuyến khích thanh niên tự tạo việc làm. Gia
đình cung cấp các tiềm lực tài chính, truyền thống tự tạo việc làm đến vai trò
của hộ gia đình các thành viên nữ trong hộ gia đình đều có mối quan hệ tỷ lệ
thuận với khả năng tự tạo việc làm của thanh niên Việt Nam.
Dự án FSPS chương trình hỗ trợ ngành thủy sản của Ủy ban nhân dân tỉnh
Nghệ An (2010) đã khẳng định nguồn lực cho phát triển kinh tế và thực hiện các
hoạt động sinh kế của lao động nữ ven biển tỉnh Nghệ An còn nhiều hạn chế như
trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn lao động thấp, phụ nữ vất vả sinh nhiều
con chăm lo gánh vác gia đình thay nam giới đi biển, thiếu đất nông nghiệp để
canh tác. Nghề nghiệp chủ yếu của lao động nữ tại các xã ven biển liên quan
nhiều đến các nghề đi biển. Sinh kế của lao động nữ phụ thuộc chủ yếu vào nghề
biển và phụ thuộc vào người chồng.
Nghiên cứu
này được thực hiện nhằm xác định vai trò của hộ gia đình đối với khả năng tự
tạo việc làm của lao động nông thôn, cung cấp thêm bằng chứng thực nghiệm trên
cơ sở điều tra khảo sát tại địa bàn tỉnh Nghệ An. Kết quả của nghiên cứu góp
phần đưa ra các gợi ý định hướng chính sách liên quan đến việc hỗ trợ của hộ
gia đình tới khả năng tự tạo việc làm của lao động nông thôn.
Trên cơ sở phân tích lý
thuyết và tổng quan nghiên cứu, tác giả đã đề xuất khung phân tích như Hình 1.
Hình 1: Khung
phân tích vai trò hộ gia đình đối với tự tạo việc làm của lao động nông thôn
Nguồn: Đề xuất của tác giả
2.2.
Phương pháp chọn mẫu quan sát
Nghiên cứu này sử dụng dữ liệu trong cuộc điều tra sơ cấp
trên địa bàn tỉnh Nghệ An. Tác giả đã thực
hiện cuộc khảo sát lao động nông thôn tại các địa phương, cuộc điều tra được
thực hiện vào tháng 4 năm 2014. Thu thập phát phiếu điều
tra đối tượng lao động nông thôn thuộc hộ gia đình. Các thông tin
định lượng được thu thập thông qua cuộc điều tra với bảng hỏi được thiết kế
sẵn. Nghiên cứu đã thực hiện cuộc khảo sát lao động nông thôn tại các địa
phương, vào tháng 4 năm 2014.
Điều tra phỏng vấn các
đối tượng lao động nông thôn, từ các hộ gia đình: Hình thức điều tra, trên địa
bàn tỉnh Nghệ An lựa chọn 4 huyện Yên Thành, Quỳnh Lưu, Thanh Chương, Quế Phong
đại diện cho 4 vùng địa lý (vùng đồng bằng, vùng ven biển, vùng núi thấp, vùng
núi cao). Tại mỗi huyện chọn 2 xã điều tra hộ gia đình (đối tượng điều tra là
chủ hộ).
Đơn vị điều tra trong
nghiên cứu được xác định là “lao động nông thôn” thuộc hộ gia đình. Có hai loại
đối tượng nghiên cứu được xác định trong mẫu điều tra (lao động nông thôn không
tự tạo việc làm, lao động nông thôn tự tạo việc làm phi nông nghiệp). Với mục
tiêu thu thập số liệu đủ lớn để kết quả nghiên cứu có ý nghĩa thống kê. Đề tài
phân vùng địa lý các đơn vị hành chính cấp huyện tỉnh Nghệ An thành bốn vùng,
trên cơ sở đó mỗi vùng chọn 1 huyện, mỗi huyện chọn 2 xã. Địa bàn các xã điều
tra là đại diện tiêu biểu cho vùng nghiên cứu.
Bảng 1: Phân bố của mẫu
điều tra lao động nông thôn
Nguồn: Khảo sát của tác giả , tháng 4 năm 2014.
Do khó khăn về khoảng cách địa
lý, thời gian và kích thước mẫu điều tra tương đối lớn nên tác giả không thể trực
tiếp phỏng vấn và điều tra lao động nông thôn mà nhờ sự hỗ trợ của một số cán bộ
ở các xã. Các cán bộ ở địa phương sau khi được tập huấn về nội dung bảng hỏi đã
hướng dẫn lao động nông thôn điền vào các câu trả lời trong bảng hỏi. Cách thu
thập thông tin này gặp phải một số khó khăn trong quá trình điều tra, vì vậy mẫu
điều tra phát ra là 800 phiếu nhưng thu về được 675 phiếu.
Bảng 2: Phân bố (%) của
đối tượng điều tra theo một số đặc điểm cơ bản
Đặc điểm
cơ bản
|
Tổng số đối tượng điều tra:
675
|
1.
Nhóm tuổi
|
19-35
|
36-50
|
>= 51
|
|
|
Tỷ lệ (%)
|
21,6
|
54,7
|
23,7
|
|
|
2.
Giới tính
|
Nam
|
Nữ
|
|
|
|
Tỷ lệ (%)
|
64,9
|
23,7
|
|
|
|
3.
Tình trạng hôn nhân
|
Đã kết hôn
|
Góa
|
Ly hôn
|
Chưa
kết hôn
|
|
Tỷ lệ (%)
|
93,5
|
2,1
|
0,4
|
4,0
|
|
4.
Trình độ học vấn
|
Tiểu học
|
Trung học
cơ sở
|
Trung học
phổ thông
|
Cao đẳng,
Đại học
|
|
Tỷ lệ (%)
|
12
|
36,6
|
46,8
|
4,6
|
|
5.
Trình độ chuyên môn
|
Không có trình độ chuyên môn
|
Sơ cấp nghề
|
Trung cấp nghề
|
Cao đẳng nghề
|
Đại học
|
Tỷ lệ (%)
|
41,3
|
41,2
|
10,2
|
4,6
|
2,7
|
Nguồn: Khảo sát của tác giả, tháng 4-2014.
2.3.
Phương pháp phân tích
Nghiên
cứu sử dụng mô hình hồi quy để đánh giá tác động của các biến độc lập lên biến
phụ thuộc (Tự tạo việc làm phi nông nghiệp). Tác giả sử dụng kỹ thuật phân tích đa biến, đặc biệt là
kỹ thuật phân tích hồi quy tương quan (binary)
cho phép đo lường mức độ ảnh hưởng của các nhóm yếu tố tới tự tạo việc làm của
lao động nông thôn. Theo mô hình xác định biến phụ thuộc là “Tự tạo việc làm
phi nông nghiệp”. Biến phụ thuộc có hai giá trị (Không tự tạo việc làm: 0; Tự
tạo việc làm: 1). Vì vậy, tác giả sẽ sử dụng hàm hồi quy Binary Logistics sử dụng biến phụ thuộc dạng nhị phân để ước lượng
xác suất một sự kiện sẽ xảy ra với những thông tin của biến độc lập mà ta có
được. Từ biến phụ thuộc nhị phân này, một thủ tục sẽ được dùng để dự đoán xác
suất sự kiện xảy ra theo quy tắc nếu xác suất được dự đoán lớn hơn 0,5 thì kết
quả dự đoán sẽ cho là “Tự tạo việc làm”, ngược lại kết quả dự đoán sẽ cho là
không.
Bảng 3: Biến độc lập trong phân tích hồi quy nhị
phân (Binary Logicstic)
Các yếu tố thuộc về hộ gia đình tác động đến tự tạo việc làm phi nông nghiệp
TT
|
Các biến độc
lập
|
Mã biến
|
Thang đo
|
1
|
Ảnh hưởng họ hàng nơi khác
|
Ahhhnoikhac
|
Thứ bậc
|
2
|
Ảnh hưởng hàng xóm
|
Ahhx
|
Thứ bậc
|
3
|
Ảnh hưởng họ hàng trong xã
|
Ahhohangtrongxa
|
Thứ bậc
|
4
|
Ảnh hưởng bạn bè ngoài xã
|
Ahbanbengoaixa
|
Thứ bậc
|
5
|
Ảnh hưởng bạn bè trong xã
|
Ahbanbetrongxa
|
Thứ bậc
|
6
|
Gia đình có nhà xưởng
|
Conhaxuong
|
Thứ bậc
|
7
|
Sử dụng đất đai gia đình
|
Sudungddgd
|
Thứ bậc
|
8
|
Vốn họ hàng
|
Vonhohang
|
Định danh
|
9
|
Vốn bạn bè trong xã
|
Vonbanbetrongxa
|
Định danh
|
Nguồn: Khảo sát của tác giả.
Tác giả tiến hành phân tích đa biến theo mô hình hồi quy logistic nhị phân bằng cách sử dụng phần
mềm SPSS để cố gắng làm rõ mối tương quan và đánh giá mức độ tác động của các
yếu tố đến tự tạo việc làm phi nông nghiệp của lao động nông thôn. Sử dụng phần mềm SPSS kỹ thuật phân tích hồi quy nhị
phân Forward LR ((Lệnh Analyze - Regression - Binarylogictic -
Method (Forward LR)).
Trong mô hình hồi quy logistic
nhị phân, biến phụ thuộc là tự tạo việc làm phi nông nghiệp, các biến độc lập
là tất cả các biến thuộc ba nhóm yếu tố ảnh hưởng đến tự tạo việc làm. Về biến
độc lập, hồi quy nhị phân logistic
phần mềm SPSS cho phép sử dụng tất cả các loại biến: liên tục, định danh hoặc
nhị phân. Sử dụng phần mềm SPSS kỹ thuật phân
tích hồi quy nhị phân Forward LR ((Lệnh
Analyze - Regression - Binarylogictic -
Method (Forward LR)). Với thủ tục này sẽ tiến hành các bước thử các biến
trong mô hình.
Bảng 4: Kết quả phân tích Hồi quy Binary logictics (N = 675)
TT
|
Biến độc lập
|
Mã biến
|
B
|
Sig
|
Exp (B)
|
1
|
Có nhà xưởng
|
Conhaxuong1
|
2,827
|
0,000
|
16,898
|
2
|
Sử dụng đất đai gia đình
|
Sudungddgd
|
1,808
|
0,000
|
6,100
|
3
|
Ảnh hưởng hàng xóm
|
Ahhx1
|
0,341
|
0,029
|
1,406
|
4
|
Ảnh hưởng bạn bè ngoài xã
|
Ahbbnx1
|
0,460
|
0,01
|
1,584
|
5
|
Vốn họ hàng
|
Vonhohang1
|
0,755
|
0,004
|
2,127
|
6
|
Vốn bạn bè trong xã
|
Vonbanbetrongxa1
|
1,538
|
0,000
|
4,656
|
Hệ số chặn
|
-3,952
|
|
|
Nguồn: Ước lượng hồi quy Binary
Logistic - Biến phụ thuộc: Tự tạo việc làm.
Thông qua các
cách tính xác suất ở các trường hợp điển hình cho thấy khả năng tự tạo việc làm
phi nông nghiệp của lao động nông thôn tỉnh Nghệ An thay đổi phụ thuộc vào sự
biến động của yếu tố trên thuộc hàm hồi quy với sự tác động của 6 biến cơ bản.
Trên cơ sở phân tích hồi quy rút ra một số kết luận sau:
1.
Khi lao động nông thôn đánh giá mức độ quan trọng của
láng giềng tăng lên thì khả năng tự tạo việc làm phi nông nghiệp của lao động
nông thôn. Láng giềng có ảnh hưởng lớn đến tự tạo việc làm phi nông nghiệp của
lao động nông thôn.
2.
Lao động nông thôn có được sự hỗ trợ của bạn bè ngoài xã
(mức độ quan trọng của bạn bè ngoài xã được đánh giá cao) thì khả năng tự tạo
việc làm phi nông nghiệp tăng lên. Vai trò của bạn bè ngoài xã có tác động thuận
chiều đến khả năng tự tạo việc làm của lao động nông thôn.
3.
Những lao động nông thôn có nhà xưởng thì khả năng tự tạo
việc làm phi nông nghiệp gấp 16,898 lần những người không có nhà xưởng. Vai trò
nhà xưởng của hộ gia đình rất quan trọng, có thể khi gia đình đã có nhà xưởng
người lao động được tích lũy nhiều kinh nghiệm do vậy khả năng tự tạo việc làm
phi nông nghiệp tăng lên.
4.
Những lao động nông thôn sử dụng đất đai gia đình có khả
năng tự tạo việc làm phi nông nghiệp gấp 6,100 lần những lao động không sử dụng
đất đai gia đình. Đất đai gia đình là yếu tố quan trọng để tự tạo việc làm phi
nông nghiệp.
5.
Những lao động nông thôn chỉ dựa vào vốn bản thân thì khả
năng tự tạo việc làm phi nông nghiệp chỉ bằng 0,494 lần lao động nông thôn
không chỉ dựa vào vốn bản thân. Như vậy vốn bản thân không phải là yếu tố cơ bản
để tự tạo việc làm phi nông nghiệp mà còn phải sử dụng nhiều nguồn vốn khác thì
khả năng tự tạo việc làm phi nông nghiệp mới có thể tăng lên.
6.
Những lao động nông thôn có thể vay được vốn từ họ hàng
thì khả năng tự tạo việc làm phi nông nghiệp gấp 2,127 lần những người không
vay được vốn từ họ hàng. Điều này cho thấy vai trò họ hàng, mối liên kết dòng họ
ở nông thôn có tác động lớn đến tự tạo việc làm phi nông nghiệp.
7.
Những lao động nông thôn có thể vay vốn từ bạn bè trong
xã có khả năng tự tạo việc làm phi nông nghiệp gấp 4,656 lần lao động nông thôn
không thể vay vốn từ bạn bè trong xã. Nhận thấy sự hỗ trợ của bạn bè trong xã
là động lực để lao động nông thôn tự tạo việc làm.
Trên cơ sở phân tích có thể rút ra nhận định về sự ảnh hưởng
của các yếu tố thuộc về hộ gia đình có tác động đến khả năng tự tạo việc làm của
lao động nông thôn trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
3.
Kết
luận và kiến nghị
3.1.
Kết luận
Nghiên cứu này đã tìm hiểu vai trò của hộ gia đình đối với tự tạo việc làm
của lao động nông thôn trên địa bàn tỉnh Nghệ An. Với việc sử dụng mẫu điều tra
(675) trên địa bàn 4 huyện thuộc tỉnh Nghệ An và việc vận dụng mô hình hồi quy
phù hợp (Binary logistic) đã phát hiện
một số vấn đề cơ bản tác động đến tự tạo việc làm của lao động nông thôn. Tác động
của láng giềng có ảnh hưởng lớn đến tự tạo việc làm của lao động nông thôn. Gia
đình có nhà xưởng và đất đai sẽ là cơ sở để giúp lao động nông thôn nâng cao khả
năng tự tạo việc làm. Sự hỗ trợ của bạn bè ngoài xã là cơ sở giúp tăng xác suất
tự tạo việc làm của lao động nông thôn. Vai trò của dòng họ được phát huy giúp
lao động nông thôn có cơ hội tự tạo việc làm.
3.2.
Kiến nghị
Phát huy động lực tự tạo việc
làm từ hộ gia đình: Quá trình tự tạo
việc làm của lao động nông thôn được sự hỗ trợ lớn từ phía gia đình. Gia đình đóng vai trò hết sức
quan trọng trong việc hỗ trợ về định hướng việc làm cho lao động nông thôn. Tuy
nhiên thực tế cho thấy các gia đình nông thôn Nghệ An vẫn còn mang nặng tư
tưởng truyền thống, không mạnh dạn dám cho con em lập nghiệp. Tư tưởng vươn lên
làm giàu còn rất nhiều rào cản từ phía gia đình: thiếu vốn, sợ thất bại, sợ
không ổn định, sợ các thủ tục... Thật khó khăn để thuyết phục các
gia đình từ bỏ sự thoải mái an toàn khi ở trong môi trường quen thuộc để dấn
thân vào tự tạo việc làm. Nếu gia đình và không ủng hộ thì có thể lao động nông
thôn sẽ gặp phải những thử thách thật sự. Không đánh giá cao các cơ hội tự tạo việc làm, tâm lý thích sự ổn định
và mong muốn bao bọc của cha mẹ và của cộng đồng đối với lao động nông thôn là
một trong những rào cản đầu tiên đối với họ. Vì vậy, cần phải thay đổi nhận
thức thông qua các chương trình truyền thông đồng bộ, đặc biệt là phát huy được
vai trò định hướng nghề nghiệp cho lao động nông thôn trong hộ gia đình. Với
vai trò là người mẹ, người chị trong gia đình, luôn hỗ trợ tốt cho thanh niên
trong mọi hoàn cảnh, nhận thức của các thành viên trong hộ gia đình sẽ có tác
động mạnh và trực tiếp tới thái độ và hành vi lựa chọn nghề nghiệp của lao động
nông thôn.
Chính vì vậy để góp phần thúc đẩy quá trình tự tạo
việc làm cho lao động nông thôn cần có một số thay đổi trong suy nghĩ của các
gia đình.
(1) Các
gia đình cần tạo dựng niềm tin cho lao động nông thôn khi tiến hành khởi sự, lập
nghiệp. Để thuyết phục gia đình ủng hộ thì phải có thời gian giải
thích cho họ hiểu về việc kinh doanh và xây dựng một kế hoạch chặt chẽ.
(2) Các gia đình cần chủ động tiếp cận các mô
hình tự tạo việc làm ở địa phương hoặc nơi khác, tìm hiểu thông tin định hướng
cho con em trong quá trình tự tạo việc làm. Với cách nghĩ, cách nhìn của những
người thân có kinh nghiệm trong gia đình sẽ là bài học quý giá trong tự tạo việc
làm của lao động nông thôn. Sự ảnh hưởng của chủ hộ gia đình đối với lao động
nông thôn có tác động lớn trong quá trình khởi nghiệp.
Tăng cường hỗ trợ tài chính của gia đình, thúc đẩy các nguồn vốn từ
họ hàng, bạn bè: Kết quả phân tích cho thấy nếu lao động nông
thôn chỉ dựa vào vốn bản thân thì khả năng tự tạo việc làm phi nông nghiệp giảm
đi nhiều lần lao động nông thôn không chỉ dựa vào vốn bản thân. Như vậy vốn bản
thân không phải là yếu tố cơ bản để tự tạo việc làm phi nông nghiệp mà còn phải
sử dụng nhiều nguồn vốn khác thì khả năng tự tạo việc làm phi nông nghiệp mới
có thể tăng lên. Đồng thời, các kết luận từ mô hình hồi quy cho thấy những lao
động nông thôn có thể vay được vốn từ họ hàng, vay vốn từ bạn bè trong xã thì
khả năng tự tạo việc làm phi nông nghiệp tăng lên nhiều lần so với những người
không có được từ các nguồn vốn đó. Điều này cho thấy vai trò của họ hàng, mối
liên kết dòng họ, mối quan hệ bạn bè ở nông thôn có ý nghĩa lớn đến tự tạo việc
làm phi nông nghiệp. Trong điều kiện đó, để có
thể tồn tại và phát triển, lao động nông thôn đã quay trở về tìm chỗ dựa trong
các mối quan hệ của họ hàng thân tộc nhằm khắc phục những khó khăn của buổi đầu
tự lập như: công cụ, sức lao động, vốn liếng, kỹ thuật... Hầu hết các gia đình
khi gặp khó khăn đã nhờ vả, nương tựa vào họ hàng nội ngoại, nhất là các mối
quan hệ cận huyết. Trong
điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay, công việc kinh doanh ở các địa
phương như đã nêu vẫn có sự đan xen đậm nét của các quan hệ họ hàng, làng mạc,
thể hiện rõ nét nhất ở việc thuê mướn lao động ưu tiên cho những người thuộc họ
tộc thân thích và người làng. Những biểu hiện trên mặc dù không phải là cách
giải quyết tối ưu song nó càng khẳng định vai trò của dòng họ trong điều kiện
hiện nay. Vai trò của gia đình và dòng họ với những giá trị tốt đẹp và đặc trưng
trong nếp sống không những không bị mai một mà còn thích ứng, biến đổi, tạo ra
các giá trị mới và có khả năng trường tồn cùng với đời sống làng, xã khu vực
nông thôn hiện nay. Truyền thống gia đình về tự tạo
việc làm, kinh nghiệm và sự hỗ trợ của những thành viên tự tạo việc làm trong
gia đình cũng đóng vai trò quan trọng trong sự lựa chọn tự tạo việc làm và làm
chủ sản xuất kinh doanh của họ, đặc biệt, tiềm lực tài chính dựa trên những thu
nhập thường xuyên ngoài làm việc của hộ là chỗ dựa vững chắc cho lao động nông
thôn tự tạo việc làm. Kinh tế hộ gia đình phát triển đã tạo ra những bước đột
phá nâng cao đời sống vật chất và tinh thần gia đình, nhưng bản thân nó chứa
đựng rất nhiều giới hạn. Nó là hình thức tổ chức lao động gắn liền với khu vực
nông thôn, sự phát triển kinh tế gia đình đóng góp vào sự phát triển của kinh
tế - xã hội. Đồng thời kinh tế gia đình còn là bàn đạp vững chắc cho lao động
nông thôn trong quá trình tự tạo việc làm. Trong điều kiện xã hội hiện đại,
kinh tế gia đình cần phải vượt ra ngoài khuôn khổ hạn hẹp của một gia đình, hòa
mình vào sự phân công lao động mới, trong đó thúc đẩy quá trình tự tạo việc làm
của lao động nông thôn là một giải pháp hết sức cần thiết.
Xây dựng các mối quan hệ với họ hàng, bạn bè và hàng xóm: Gia đình
với các mối quan hệ xã hội, mối quan hệ trong cộng đồng là nguồn lực vững chắc
hỗ trợ cho lao động nông thôn trong quá trình tự tạo việc làm. Do chức năng đặc
thù của gia đình, gia đình góp phần quan trọng vào việc duy trì sự tồn tại của
đời sống xã hội, phát triển kinh tế. Gia đình cũng là mắt xích quan trọng trong
mối quan hệ giữa con người với con người với làng xóm với cộng đồng, đất nước.
Xây dựng quan hệ lành mạnh giữa gia đình với cộng đồng là cơ sở cần thiết để giúp
lao động nông thôn tạo dựng mối quan hệ cần thiết trong quá trình tự tạo việc
làm.
Kết quả phân tích cho thấy, đối
với những lao động nông thôn đánh giá tác động của láng giềng là quan trọng thì khả năng tự tạo việc làm phi
nông nghiệp của lao động nông thôn đó tăng lên. Lao động nông thôn có được sự hỗ
trợ của bạn bè ngoài xã (mức độ quan trọng của bạn bè ngoài xã được đánh giá
cao) thì khả năng tự tạo việc làm phi nông nghiệp tăng lên. Căn cứ vào những kết
luận trên cho thấy lao động nông thôn có mối quan hệ cộng đồng với láng giềng,
bạn bè, dòng họ tốt thì sẽ nhiều thuận lợi trong quá trình tự tạo việc làm phi
nông nghiệp.
Cần nâng cao vị thế các thành viên trong gia đình
để làm tăng thêm giá trị cá nhân con người, thúc đẩy vai trò của lao động nông
thôn trong quá trình tự tạo việc làm. Trong quá trình tự tạo việc làm, lao động
nông thôn phải đối diện với nhiều khó khăn thách thức, họ cần sự hỗ trợ từ phía
gia đình, đặc biệt từ cộng đồng xung quanh. Thực tế cho thấy quá trình tự tạo
việc làm của lao động nông thôn bản thân nội lực của chính họ và gia đình là
chưa đủ. Họ cần tới sự hỗ trợ của chính những người xung quanh, họ tộc láng giềng.
Đồng thời, quá trình tạo dựng các quan hệ tốt với
láng giềng, bạn bè, dòng họ sẽ giúp lao động nông thôn hình thành các kỹ năng cần
thiết trong quá trình tự tạo việc làm. Các kỹ năng đó là vốn kiến thức cần thiết
để lao động nông thôn có thể thực hiện các kế hoạch, các giao dịch trong quá
trình tự tạo việc làm.
Tài liệu tham khảo:
Ngô Quỳnh An (2012), Tăng cường khả năng tự tạo
việc làm cho thanh niên Việt Nam, Luận án Tiến sỹ Đại học Kinh tế Quốc dân.
Ajzen (1991), “The Theory of Planned Behavior”, Organizational Behavior and Human
Decision Processes, Vol. 50, page 197-211.
DeWit (1993) “Model of self- employment in a competitive
market”. Journal of Economic Surveys, page 67-397.
Do Thi Quynh Trang, Gerard
Duchene (2008) “Determinants of self
–employment: the case in Vietnam”, CES Working paper, University Paris1,page
30.
Linda Yueh (2009), “Self-employment in urban China:
Networking in a transition economy”, University of Oxford, United
Kingdom < www.sciencedirect.com>.
James Fetzer (1998), World Bank
working paper “Who is likely to become
self employed in Vietnam?”, page 19, < http://ssrn.com/abstract=1161152.>
UBND Tỉnh Nghệ An, Chương trình hỗ trợ ngành thủy sản
giai đoạn 2 (FSPS-II) (2010), Báo cáo cuối cùng xây dựng sinh kế nâng cao đời
sống lao động nữ vùng ven biển tỉnh Nghệ An, Nghệ An.
Thông tin tác giả:
*Hồ
Thị Diệu Ánh, Tiến sỹ
-
Tổ
chức tác giả công tác: Khoa Kinh tế - Đại học Vinh.
-
Lĩnh
vực nghiên cứu chính: Quản trị nhân lực, Kinh tế lao động.
-
Một
số tạp chí tiêu biểu mà tác giả đã từng đăng tải công trình nghiên cứu: Tạp chí
Kinh tế phát triển, Tạp chí Lao động xã hội, Tạp chí Kinh tế dự báo, Tạp chí
Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương.
-
Địa
chỉ Email: hdakinhte@gmail.com; SĐT: 0989729035, 0948983777.