TỪ ÁP CHẾ TÀI CHÍNH ĐẾN TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH  - LỘ TRÌNH  PHÙ HỢP CHO VIỆT NAM

ThS. Bành Thị Thảo

 Tài chính Ngân hàng, Khoa Kinh tế

Trong một thời gian dài, các nước đang phát triển thường can thiệp vào khu vực tài chính bằng cách áp đặt những kiểm soát về mặt định tính hay định lượng đối với các hoạt động của các tổ chức và thị trường tài chính, chẳng hạn như kiểm soát lãi suất, quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc cao, sở hữu và/hoặc quản lý các ngân hàng thương mại, phân bổ tín dụng có chỉ định với các ngân hàng thương mại, hạn chế sự gia nhập vào ngành tài chính, hạn chế sự ra vào các dòng vốn quốc tế. Cách làm này được gọi là áp chế tài chính.

Dựa vào những phân tích lý thuyết và thực nghiệm, một số nhà kinh tế đã đi đến kết luận rằng áp chế tài chính dẫn đến mức phát triển tài chính thấp hơn. Sự kiểm soát chặt chẽ lãi suất đi kèm với lạm phát thường dẫn đến tỉ lệ tiền gửi âm, gây xói mòn quy mô nguồn vốn có thể cho vay. Do vốn trong hệ thống tài chính chính thức không còn nhiều, các nhà đầu tư phải dựa nhiều hơn vào việc tự xoay xở nguồn vốn. Đồng thời, các chương trình tín dụng chỉ định kèm theo lãi suất ưu đãi cũng làm gia tăng sự phân bổ vốn đầu tư sai lệch trên diện rộng và năng suất của vốn cũng thấp hơn.

Giải pháp cho những vấn đề trên như vẫn thường được đề cập, là tự do hóa tài chính mà trọng tâm là tự do hóa lãi suất. Khi trần lãi suất được bãi bỏ, tiền tiết kiệm sẽ gia tăng và hiệu quả phân bổ đầu tư trong thị trường tài chính cũng sẽ cải thiện.

Tuy nhiên, cũng có những mặt trái được coi là thất bại của thị trường. Lãi suất thực tăng do tự do hóa tài chính có thể tạo ra những tác động ngoài mong đợi, như sự lựa chọn đối nghịch và tâm lý ỷ lại. Thứ nhất, mức lãi suất càng cao, thì tỉ lệ người có rủi ro đi vay càng lớn. Thứ hai, bất kỳ người đi vay nào cũng sẽ cố gắng thay đổi bản chất của dự án để tăng độ rủi ro. Do đó, nhiều chính phủ đang theo đuổi quá trình tự do hóa một cách vội vã và toàn diện đã phải hứng chịu nhiều đợt khủng hoảng tài chính nghiêm trọng.

Có một “vòng luẩn quẩn” trong hoạt động của thị trường tài chính nói chung và thị trường tài chính của các nước đang phát triển nói riêng khi mà chính phủ can thiệp quá sâu vào hệ thống tài chính với kỳ vọng khắc phục thất bại thị trường. Do thất bại thị trường, hệ thống tài chính xảy ra đổ vỡ, khủng hoảng, Chính phủ phải đứng ra can thiệp bằng chính sách cứng rắn.Các chính sách này đến lượt nó lại bóp méo các quan hệ thị trường, không phân bổ sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, cản trở sự phát triển kinh tế xã hội và dẫn đến thất bại Chính phủ. Để giải quyết, chính phủ trở lại nới lỏng và tự do hóa thị trường tài chính.

Vì vậy một trình tự phù hợp được đề nghị nhằm đảm bảo tự do hóa tài chính nhưng vẫn đảm bảo ổn định vĩ mô, không đi vào “vòng luẩn quẩn” là: Hệ thống tài chính cần phải được từng bước tự do hóa với điều kiện ổn định tốt vĩ mô và thực hiện các cải cách quan trọng liên quan. Do vậy thay vì tự do hóa tài chính hoàn toàn, bước đầu nới lỏng sau đó thực hiện áp chế tài chính ở mức độ vừa phải và kế đến thực hiện tự do hóa theo các cam kết của các tổ chức đa phương trên thế giới:  Áp chế tài chính ở mức độ vừa phải để tạo nguồn thu bù đắp thâm hụt ngân sách trong điều kiện chính phủ không đảm bảo được khả năng thu thuế đầy đủ; Kiềm chế tài chính để kiểm soát thông tin bất cân xứng và hiệu chỉnh thất bại thị trường trong các giao dịch tín dụng.

1.      Kinh nghiệm từ Thái Lan, Trung Quốc

Thái Lan được xem là nơi châm ngòi cho cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ tại châu Á vào năm 1997-1998. Lúc đó, nhiều người không tin điều tồi tệ như vậy lại có thể xảy ra. Tuy nhiên, sau khi có đủ thời gian suy nghĩ, có thể thấy rằng khủng hoảng là điều tất yếu và một trong những nguyên nhân chính là do các nước trong khu vực đã quá vội vã trong việc tự do hóa tài khoản vốn và áp dụng cơ chế cố định tỷ giá khi mà nền kinh tế chưa thực sự ổn định, khu vực tài chính ngân hàng còn bộc lộ nhiều yếu kém cộng với những cải cách khác chưa được thực hiện theo tiến trình tự do hóa tài chính nêu trên.

Cũng giống một số nước khác, vào năm 1994, Trung Quốc đã cố định tỷ giá. Điều thú vị ở đây là khác với nhiều nước Đông Á, với tỷ giá này, đồng Nhân dân tệ đã bị định giá thấp, nhưng tạo được lợi thế xuất khẩu gia tăng. Cộng với những yếu tố thuận lợi khác, một kết quả hết sức mỹ mãn đối với Trung Quốc là kể từ đó thặng dư mậu dịch và dữ trữ ngoại hối liên tục gia tăng. Với sức mạnh về ngoại thương và số tiền có sẵn trong tay, Trung Quốc đã khiến cho tất cả các đối tác thương mại, kể cả Hoa Kỳ phải e ngại. Thực tế cho thấy, sau 18 tháng, đồng Nhân dân tệ chỉ tăng giá vào khoảng 6%, thấp hơn mức người ta kỳ vọng rất nhiều.  Hơn thế nữa, nhờ khoản tiền dữ trữ ngoại hối dồi dào mà Trung Quốc có thể chi ra cả trăm tỷ đô-la để biến các ngân hàng thương mại nhà nước với tình trạng tài chính yếu kém trở thành những ngân hàng có khả năng cạnh tranh. Không phải ngẫu nhiên mà Trung Quốc có được vị thế như hiện nay mà song song với quá trình cải cách kinh tế, họ đã thực hiện một quá trình cải cách và tự do hóa tài chính một cách hợp lý qua 5 giai đoạn khác nhau mà bắt đầu bằng việc tự do hóa lần đầu tiên trong những năm 1978-1986, đến giai đoạn tự do hóa và mở cửa ngành tài chính sau khi gia nhập WTO vào năm 2001. Trong quá trình tự do hóa tài chính của mình, không phải lúc nào cũng suôn sẻ đối với Trung Quốc, sau cuộc khủng hoảng năm 1997, sức ép phá giá lên đồng Nhân dân tệ rất nhiều, nhưng nhờ sức mạnh sẵn có của nền kinh tế cộng với một lượng ngoại tệ dữ trữ tương đối lớn (gần 150 tỷ đôla) mà Trung Quốc đã thành công trong việc duy trì chính sách tỷ giá của mình. Điều này cũng đã giúp Đông Á không chìm sâu vào khủng hoảng.

Một trong những sai lầm lớn nhất gây ra cuộc khủng hoảng năm 1997 là việc Thái Lan đã mở tài khoản vốn quá sớm làm cho một dòng nợ, nhất là nợ ngắn hạn khổng lồ đổ vào kết hợp với chính sách cố định tỷ giá ở mức cao, đồng tiền kém sức cạnh tranh, thâm hụt thương mại gia tăng làm cho vấn đề trầm trọng hơn. Trái lại, thành công của Trung Quốc có được là do nước này đã định giá đồng tiền ở mức thấp tạo ra lợi thế cạnh tranh ngoại thương cộng với một tiến trình cải cách thương mại và cải cách tài chính hợp lý.

2.      Quá trình chuyển từ áp chế tài chính sang tự do hóa tài chính tại Việt Nam

Quá trình chuyển dịch từ áp chế tài chính sang tự do hóa tài chính đã được Chính Phủ, NHNN Việt Nam thực hiện kể từ 1990 với việc từng bước tự do hóa lãi suất, thay đổi cơ chế điều hành tỷ giá, thay đổi cách quản lý hệ thống ngân hàng và vận hành nền kinh tế. Đối với lãi suất, từ việc ấn định các lãi suất huy động sang kiểm soát lãi suất theo cơ chế trần sàn, lãi suất cơ bản rồi lãi suất thỏa thuận. Hay tỷ giá được nới lỏng dần từ chế độ tỷ giá cố định sang chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết. Hệ thống ngân hàng đang phát triển theo hướng nâng cao khả năng cạnh tranh, tái cấu trúc theo hướng lành mạnh. Các doanh nghiệp nhà nước đã và đang được cổ phần hóa hoạt động theo quy luật thị trường, nâng cao hiệu quả kinh tế. Dự trữ ngoại hối càng ngày càng tăng cao với con số 41 tỷ USD kết thúc năm 2016. Gia nhập các tổ chức kinh tế thế giới, mở rộng từng phần tài khoản vốn, ngân sách thâm hụt ở mức vừa phải. Những kết quả trên đến từ nỗ lực giảm thiểu các áp chế tài chính về dự trữ bắt buộc, trần lãi suất, sở hữu và can thiệp của nhà nước trong các ngân hàng thương mại, tăng cường tạo sân chơi bình đẳng và giảm dần tín dụng chỉ định.

Tuy vậy, con đường tiến tới tự do hóa của Việt Nam còn chặng đường rất xa, bởi sau khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007-2008 đến nay, nền kinh tế còn bộc lộ nhiều nhược điểm và khả năng đề kháng của nền kinh tế Việt Nam trước những cú sốc còn kém. Các áp chế tài chính lại dường như có hiệu quả những lúc này. Hệ thống ngân hàng lộ những khuyết điểm chí mạng thiếu tính minh bạch như nợ xấu, thanh khoản kém, kinh doanh nhiều rủi ro. Doanh nghiệp nhà nước gây thất thoát tiền thuế của dân hàng chục tỷ đồng. Khả năng cạnh tranh và tự đứng vững khi hội nhập của khu vực doanh nghiệp còn chưa cao vẫn cần có sự bảo trợ của Chính Phủ. Con số nợ công tăng cao mức báo động 65% GDP tạo gánh nặng quá lớn cho ngân sách, tốc độ tăng nợ công còn cao hơn rất nhiều lần so với sự gia tăng của dự trữ ngoại hối….Trong khi đó cánh cửa hội nhập đang đến gần.

3.      Lộ trình cho Việt Nam

Tự do hoá tài chính có thể làm tăng tính bất ổn theo hai cách: Làm cho nền kinh tế tiếp cận trực diện với những nguồn gốc mới của những cú sốc trong kinh tế quốc tế; Khuếch đại và làm trầm trọng thêm những cú sốc trong nước.

Nhận định những tác động tiêu cực của quá trình tự do hóa tài chính ảnh hưởng như thế nào đến nền kinh tế của một quốc gia, từ đó cho chúng ta thấy được sự cần thiết của việc sử dụng các biện pháp áp chế tài chính để kiểm soát an ninh tài chính để phòng tránh những rủi ro tài chính và thiết kế lộ trình phù hợp

Kinh nghiệm từ Thái Lan và Trung Quốc có giá trị tham khảo rất lớn. Tuy nhiên, rõ ràng Việt Nam cần phải chọn cách đi riêng cho mình, vì bối cảnh ngày nay rất khác so với cách đây hơn một thập niên.

Tại thời điểm hiện nay, bên cạnh lộ trình đang được nới lỏng dần để tiến đến tự doa hóa tài chính như tự do hóa lãi suất, tỷ giá, hội nhập hệ thống ngân hàng, doanh nghiệp...thì Việt Nam vẫn cần phải phối hợp các áp chế tài chính để nâng cao khả năng cạnh tranh, khả năng chống đỡ của nền kinh tế như phải nâng cao tính minh bạch, hiệu quả quản trị rủi ro của hệ thống ngân hàng, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp…Bên cạnh đó, tự do hóa tài khoản vốn cũng cần được thực hiện cùng lúc với quá trình tăng sức đề kháng cho nền kinh tế. Quá trình đó chính là liều vắc xin được đưa vào để từng bước nâng cao khả năng miễn nhiễm của nền kinh tế Việt Nam trước những thất bại thị trường, những tác động bên ngoài vốn là mặt trái của quá trình tự do hóa tài chính.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Xuân Thành, Trọng Hoài:  “Áp chế tài chính và quản lý vĩ mô

2. Richard L.Kitchen: “Các công cụ áp chế tài chính

3. Xuân Thành: “Tự do hóa tài chính

4. Asli Demirguc-Knut và Enrica Detragiache, tháng 3/1998: “Tự do hóa tài chính và tình trạng mỏng manh về tài chính”

5. Fulbright Economics Teaching Program học kỳ Xuân 2011-2013