KHÓ KHĂN, THÁCH
THỨC KHI ÁP DỤNG CHUẨN MỰC BÁO CÁO
TÀI CHÍNH QUỐC
TẾ (IFRS) TẠI VIỆT NAM
VÀ LỘ TRÌNH THỰC HIỆN
TS.
Đường Thị Quỳnh Liên
Chuẩn mực Báo cáo tài chính quốc tế (IFRS) đang được áp dụng toàn bộ hoặc gần như toàn bộ
tại hơn 100 quốc gia trên toàn thế giới, trong đó có một số quốc gia ở khu vực
Đông Nam Á. Tại Việt Nam, khi nền kinh tế bước vào giai đoạn hội nhập
mạnh mẽ trong cả phạm vi khu vực và quốc tế, IFRS càng trở thành đề tài nóng và
thu hút nhiều hơn sự quan tâm của đông đảo các nhà hoạch định chính
sách, các chuyên gia trong nước cũng như cộng đồng doanh nghiệp (DN) đặc
biệt là các DN niêm yết trên sàn chứng khoán - những DN đầu tiên được yêu cầu
tiên phong áp dụng IFRS theo khung lộ trình áp dụng IFRS của Bộ Tài chính đến
năm 2020. Bài viết này đề cập đến những khó khăn, thách thức khi áp dụng IFRS
tại Việt Nam. Từ đó, bài viết tiến hành phân tích lộ trình
và những việc mà doanh nghiệp Việt Nam cần thực hiện
Từ khóa: Chuẩn
mực kế toán quốc tế, chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế,...
Chuẩn
mực báo cáo tài chính quốc tế (tên viết tắt là IFRS) được Hội đồng chuẩn mực kế
toán quốc tế (IASB) biên soạn và ban hành nhằm hướng dẫn việc lập và trình bày
báo cáo kế toán có tính thống nhất cao và được sử dụng rộng rãi khắp thế giới. Mục
đích của việc tiêu chuẩn hóa này là để giúp tạo ra sự phù hợp đối với quá trình
chuẩn bị lập báo cáo tài chính trong một môi trường toàn cầu.
Trong xu thế hội
nhập kinh tế toàn cầu, việc lập báo cáo tài chính theo Chuẩn mực Báo cáo tài
chính quốc tế (IFRS) ngày càng nhận được sự ủng hộ của các quốc gia và vùng
lãnh thổ trên thế giới. Theo thống kê, có khoảng 131 nước và vùng lãnh thổ cho
phép hoặc bắt buộc áp dụng IFRS khi lập báo cáo tài chính của các công ty niêm
yết trong nước. Ở Châu Âu, 31 nước thành viên và 5 vùng lãnh thổ đã áp dụng
toàn bộ IFRS. Ở Mỹ, thị trường nội địa vẫn nằm ngoài khuôn khổ của IFRS, tuy
nhiên Ủy ban Chứng khoán Mỹ (SEC) đã xác nhận việc đưa IFRS vào các mô hình của
Mỹ được coi là nhiệm vụ ưu tiên.
Tại Việt Nam,
Chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) bao gồm 26 chuẩn mực, được xây dựng dựa trên
các chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS) theo nguyên tắc phù hợp với đặc điểm nền
kinh tế và tình hình các doanh nghiệp tại Việt Nam. Đến nay, lập báo cáo tài
chính theo IFRS đang trở nên ngày càng phổ biến hơn theo yêu cầu của các tập
đoàn mẹ, các bên cho vay cũng như phát sinh từ sự tham gia của các tập đoàn
kinh tế lớn vào thị trường vốn quốc tế. Ngoài ra, Bộ Tài chính cũng đang trong
quá trình ban hành chuẩn mực mới tiếp cần gần hơn với IFRS. Năm 2014 với việc
ban hành Thông tư số 200/2014/TT-BTC về chế độ kế toán doanh nghiệp thay thế
Quyết định số 15/2006 ngày 20/03/2006 và đặc biệt là Thông tư 202/2014/TT-BTC
về hướng dẫn lập báo cáo tài chính hợp nhất đã đưa chế độ kế toán và lập BCTC
của Việt Nam tiến lại gần hơn với các tiêu chuẩn quốc tế trong IAS và IFRS.
Theo đó, Thông tư 202/2014/TT-BTC đã căn cứ trên chuẩn mực IAS 27/ IFRS 10
trong việc hạch toán những thay đổi về tỷ lệ sở hữu của công ty mẹ tại công ty
con nhưng vẫn giữ quyền kiểm soát. Có thể thấy rằng việc áp dụng các chuẩn mực
kế toán quốc tế trong lập báo cáo tài chính (BCTC) giúp nâng cao tính công
khai, minh bạch trong BCTC của doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp niêm
yết. Đồng thời còn đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế trong việc thu hút các
nguồn vốn nước ngoài.
1. Những khó khăn và thách thức khi áp dụng
IFRS tại Việt Nam
Ở Việt Nam,
những khó khăn và thách thức khi áp dụng IFRS là không nhỏ. Bao gồm thị trường
hoạt động, vấn đề nội tại của IFRS, hạ tầng cơ sở thông tin, rào cản ngôn ngữ,
năng lực nguồn nhân sự... Thực tế cho thấy, chỉ một số ít doanh nghiệp niêm yết
trên HOSE - chủ yếu là các doanh nghiệp có giao dịch với các đối tác quốc tế -
là có thực hành IFRS. Các doanh nghiệp khác còn khá xa lạ với chuẩn mực quốc tế
này. Điều này đang cản trở kinh tế Việt Nam hòa nhập vào dòng chảy kinh tế
thế giới, trong đó có dòng chảy rất quan trọng về nguồn vốn.
Thứ nhất, chi phí cho việc áp dụng các chuẩn mực kế toán quốc tế (IFRS): Mặc dù
IFRS làm tăng tính minh bạch tài chính cho người sử dụng báo cáo tài chính trên
toàn thế giới, một số doanh nghiệp cho rằng hệ thống kế toán IFRS là quá phức
tạp. Ngoài ra, đối với một số doanh nghiệp vừa và nhỏ, việc đầu tư vào hệ thống
kế toán IFRS khá tốn kém, bao gồm chi phí đào tạo nhân viên, tuyển chuyên viên
kế toán có trình độ, cũng như các chi phí nâng cấp công nghệ nhằm hỗ trợ với
các tiêu chuẩn báo cáo tài chính mới. Tuy nhiên, doanh nghiệp không nên xem
những vấn đề này là bất lợi khi hướng đến phát triển kinh doanh lâu dài.
Thứ hai, một số khác biệt cơ bản giữa chuẩn mực kế toán Việt Nam và chuẩn mực kế
toán quốc tế IFRS: Nguyên nhân chính khiến các doanh nghiệp không sẵn sàng áp
dụng IFRS là do những điểm khác biệt cơ bản giữa chuẩn mực kế toán Việt Nam
(VAS) và chuẩn mực kế toán quốc tế (IFRS). Ví dụ, kế toán VAS dựa trên
nguyên tắc giá gốc, trong khi đó IFRS dựa trên nguyên tắc giá trị hợp lý. Mặc
dù xác định giá trị hợp lý không phải điều dễ dàng trong một số trường hợp, đặc
biệt là trong bối cảnh thị trường Việt Nam, khái niệm giá trị hợp lý đang
được ủng hộ rộng rãi. Ghi nhận dựa trên cơ sở giá gốc sẽ không đem lại cái nhìn
đúng đắn về tình hình tài chính của doanh nghiệp, đặc biệt là đối với danh mục
tài sản, phần mà giá trị hợp lý thay đổi theo thời gian, chẳng hạn như nhà đất,
trang thiết bị, v..v.. Nhìn chung, các doanh nghiệp tại Việt Nam khi áp dụng IFRS cần phải áp dụng song song
cả hai hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam và chuẩn mực kế toán quốc tế.
Thứ ba, thiếu quy định hạch toán kế toán cho một số khoản mục trong
chuẩn mực kế toán Việt Nam: Theo Deloitte, các chuẩn mực kế toán Việt Nam được
dựa trên chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS) được ban hành từ năm 2003 trở về trước
và chuẩn mực kế toán Việt Nam vẫn chưa thông qua những chuẩn mực kế toán IFRS
mới hoặc những sửa đổi cho chuẩn mực kế toán IAS. Chuẩn mực báo cáo tài chính
IFRS đã đặt ra những chuẩn mực hạch toán kế toán cho một số hạng mục mà
chuẩn mực kế toán Việt Nam
chưa đặt ra. Cho ví dụ, chuẩn mực kế toán Việt Nam vẫn chưa giải quyết vấn đề
thanh tóan trên cở sở cổ phiếu (IFRS 2) mặc dù các công cụ tài chính này đã
được sử dụng rộng rãi ở nhiều công ty. Ngoài ra, nhiều doanh nghiệp lớn cũng
thường đầu tư vào các dự án riêng hoặc các công ty con trên cơ sở đầu tư tạm
thời và giữ để bán, nhưng hệ thống kế toán Việt Nam vẫn chưa có chuẩn mực dành
cho Tài sản dài hạn nắm giữ để bán và hoạt động không liên tục (IFRS 5). Ngoài
ra, VAS chưa đề ra chuẩn mực đối với công cụ tài chính như IFRS 9 hiện có.
Thứ tư, việc chuyển đổi thuật ngữ kế toán từ tiếng Việt sang tiếng Anh cũng là
một thách thức. Bên cạnh đó, như các chuẩn mực kế toán IAS, các chuẩn mực báo
cáo tài chính IFRS cũng có thể được sửa đổi hoặc ngưng áp dụng, do vậy, các
doanh nghiệp cần phải cập nhật thường xuyên để nắm bắt những thay đổi này.
Thứ năm, các cơ sở đào tạo (các trường đại học, Hiệp
hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam (VACPA) và các đơn vị đào tạo trong nước)
tại Việt Nam hiện chưa có chương trình đào tạo về IFRS một cách hệ thống. Hiện
mới chỉ có một số các tổ chức nghề nghiệp quốc tế như Hiệp hội Kế toán Anh quốc
(ACCA), Hiệp hội Kế toán công chứng Australia (CPA Australia), Viện Kế toán
Công chứng Anh và xứ Wales (ICAEW) có chương trình đào tạo IFRS cho một số ít
học viên.
Thứ sáu, bản thân cơ quan thuế cũng như các cán bộ
thuế cũng chưa nắm rõ về các chuẩn mực của IFRS nên khi làm theo IFRS thì chênh
lệch giữa thu nhập chịu thuế và lợi nhuận kế toán sẽ ngày càng khác biệt. Do
vậy, vẫn còn xảy ra những tranh luận giữa cơ quan thuế và doanh nghiệp khi các
cơ quan này nhận được bộ BCTC theo IFRS từ phía các doanh nghiệp.
Thứ
bảy, thông số của thị trường khi đánh giá giá trị hợp lý thì phải có
thị trường thích hợp để đánh giá. Ví dụ khi muốn đánh giá giá trị hợp lý của
một sản phẩm loại A thì chúng ta phải có thị trường để xác định giá trị của sản
phẩm đó trong khi đó trên thực tế, chúng ta vẫn chưa có đủ thị trường để xác
định giá trị. Ngoài ra, hệ thống đánh giá tín nhiệm, xếp hạng doanh nghiệp của
Việt Nam
cũng chưa mạnh vì khi áp dụng IFRS thì phải xác định các yếu tố như là lãi suất
hiệu lực. Muốn xác định lãi suất hiệu lực thì phụ thuộc nhiều vào yếu tố xác
định rủi ro, hệ thống quản trị cũng như xếp hạng doanh nghiệp để xác định lãi
suất hiệu lực đối với từng doanh nghiệp. Còn với thị trường vốn, vì quy mô
doanh nghiệp Việt Nam còn nhỏ nên thị trường trái phiếu chuyển đổi chưa phát
triển dẫn đến công cụ vốn và công cụ nợ nếu muốn tính theo chuẩn mực quốc tế
còn gặp khó khăn do chưa có đầy đủ các thị trường để chúng ta đo lường và xác
định giá trị.
2. Những việc cần thực hiện khi áp dụng IFRS tại Việt Nam
Thông qua áp dụng IFRS, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ
có thể được hưởng lợi từ hội nhập kinh tế như tiếp cận nguồn vốn, duy trì năng
lực cạnh tranh và phát triển một cách bền vững. Tuy nhiên, thách thức, khó khăn
khi áp dụng IFRS cũng không nhỏ. Mặc dù có rất nhiều lợi ích trong việc áp dụng
IFRS, nhưng để áp dụng được IFRS, các doanh nghiệp Việt Nam phải chuẩn bị rất nhiều thứ từ
nhân lực đến vật lực.
Thứ nhất, không phải
doanh nghiệp nào cũng có thể đáp ứng được nhân sự có trình độ cao để có thể
hiểu và áp dụng IFRS ngay lập tức.
Thứ hai, hệ thống
kết nối thông tin trong nội bộ và phần mềm kế toán của doanh nghiệp chưa đủ
mạnh để có thể cập nhật các thông tin tài chính kịp thời và đầy đủ.
Thứ ba, cơ chế, chính
sách cho việc áp dụng IFRS ở Việt Nam hiện vẫn chưa hoàn thiện, do vậy một số
kỹ thuật đặc biệt của IFRS chưa có căn cứ pháp lý để thực hiện, ví dụ như việc
ghi nhận tổn thất tài sản, việc kế toán các công cụ phái sinh cho mục đích
phòng ngừa rủi ro, việc ghi nhận giá trị hợp lý của một số tài sản tài chính,
bất động sản đầu tư hoặc tài sản sinh học… đều chưa được hướng dẫn.
3. Lộ trình thực hiện IFRS tại Việt Nam
Theo IASB, IFRS phù hợp với toàn bộ các công ty có
trách nhiệm giải trình đại chúng. Điều này bao gồm các công ty niêm yết trên
sàn chứng khoán và theo đó có trách nhiệm báo cáo tới các cổ đông. Các công ty
này cũng bao gồm các ngân hàng, công ty bảo hiểm, các tổ chức tương hỗ và các
tổ chức tương tự có nhận vốn từ công chúng. Tuy nhiên, đối với các doanh nghiệp
vừa và nhỏ (SMEs) không có trách nhiệm BCTC ra công chúng, họ thấy chi phí để
hiểu và áp dụng IFRS cao hơn lợi ích thu được, do vậy IASB có các IFRS riêng
cho SMEs.
Một trong những câu hỏi lớn dành cho Việt Nam hay
bất kỳ quốc gia nào đang cần cập nhật các chuẩn mực kế toán, là liệu có nên áp
dụng IFRS hay điều chỉnh để phù hợp với những yêu cầu trong nước? Hầu hết các
quốc gia đều cân nhắc trước vấn đề này, và đại đa số chọn áp dụng IFRS và không
điều chỉnh gì.
IASB rất khuyến khích Việt Nam tham gia cộng đồng
các quốc gia áp dụng IFRS bằng việc áp dụng nguyên vẹn bộ Chuẩn mực IFRS bởi
những lợi ích mà IFRS đem lại cho nền kinh tế quốc gia và cam kết hỗ trợ kỹ
thuật cho Việt Nam trong từng giai đoạn triển khai áp dụng IFRS. Cần có lộ
trình phù hợp để từng bước tiến tới áp dụng hoàn toàn IFRS, bên cạnh đó cần có
sự tư vấn, hỗ trợ của IASB và chuyên gia của các tổ chức nghề nghiệp quốc tế.
Với kinh nghiệm dày dặn trong việc tư vấn áp dụng
IFRS trên toàn cầu, một số tổ chức nghề nghiệp quốc tế và các công ty kiểm toán
cam kết hỗ trợ Bộ Tài chính, thông qua Vụ Chế độ Kế toán và Kiểm toán, gây dựng
lộ trình và triển khai áp dụng IFRS tại Việt Nam, đồng thời sẽ tư vấn, trợ giúp
các doanh nghiệp có nhu cầu lập BCTC theo IFRS.
Về vấn đề này, cần có sự hợp tác hiệu quả, bài bản
và sâu rộng hơn nữa giữa các bên để việc áp dụng IFRS được hiệu quả hơn. Hiện
nay, Bộ Tài chính cũng đã nhận được một số bản diễn giải chuẩn mực quốc tế và
sự hợp tác của các chuyên gia quốc tế trong việc tư vấn doanh nghiệp áp dụng
IFRS. Việc áp dụng hoàn toàn IFRS kỳ vọng sẽ mở ra một thời kỳ mới làm thay đổi
cách thức ghi nhận, đo lường và trình bày các yếu tố của BCTC, loại trừ sự khác
biệt trong chuẩn mực kế toán, là điều kiện để đảm bảo các doanh nghiệp và tổ
chức trên toàn thế giới áp dụng các nguyên tắc kế toán một cách thống nhất
trong lập và trình bày BCTC. Việc thực hiện theo IFRS thực sự là một thách thức
về mức độ phát triển của thị trường, trình độ, năng lực của kiểm toán viên, kế
toán viên và cả các nhà đầu tư trên thị trường. Đối với TTCK, việc lập và trình
bày BCTC theo IFRS sẽ hỗ trợ nâng cao tính công khai, minh bạch và bền vững của
thị trường. Tuy nhiên, việc chuyển đổi BCTC được lập theo VAS sang IFRS đòi hỏi
nỗ lực không nhỏ từ các doanh nghiệp và những người làm công tác tài chính kế
toán.
Như vậy,
con đường tiến tới IFRS là con đường tất yếu của Việt Nam. Việc nhìn nhận được những khó
khăn, thách thức sẽ giúp các cơ quan hữu quan cùng tìm ra giải pháp hiệu quả để
sớm đưa IFRS vào áp dụng tại Việt Nam. Với sự chung tay của các thể
chế tài chính, cơ quan, ban ngành, như Bộ Tài chính, các hiệp hội nghề nghiệp
kế toán kiểm toán, các trường đại học, các tổ chức tiên phong áp dụng, cùng sự
phối hợp với tổ chức quốc tế có kinh nghiệm và uy tín chuyên môn cao, Bộ Tài
chính có thể cơ bản đưa chuẩn mực kế toán Việt Nam đến gần hơn và sớm tiệm cận
với các chuẩn mực kế toán quốc tế. Mặc dù trong quá trình tiến tới IFRS còn có nhiều trở ngại và thách thức đặt
ra, nhưng hơn ai hết, với những lợi ích to lớn của nó mang lại, nó sẽ vượt qua
những trở ngại đó và đi đến thành công, đó là việc hình thành nên IFRS áp
dụng chung cho tất cả các quốc gia trên toàn thế giới.
TÀI LIỆU THAM
KHẢO
1. Art Berknoits
and Richard Reanpell (2002), “The
Accounting Debate: Principle vs. Rules”.
2. Benston, G.B.(2006), “Principles-versus rules-based accounting
standards: the FASB’s standard setting strategy”, Abacus.
3. Gill, L. (2007), “IFRS: Coming to America. What CPAs need to know
about the new global GAAP”, Journal of Accountancy.
4. Thông tin doanh
nghiệp (2015), “Chuẩn mực Báo cáo Tài
chính Quốc tế: Thách thức và kinh nghiệm cho Việt Nam”, Tạp chí Tài chính tháng
11/2015
5. Trần Thúy Tiên (2015), “Thích
nghi với toàn cầu hóa kinh tế: Từ chuần mực kế toán Việt Nam (VAS) tới chuần mực kế toán
quốc tế (IFRS)”, tháng 11/2015
6. ThS Nguyễn Thị Kim Chung (2016), “Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế và kinh nghiệm cho Việt Nam”,
Tạp chí Tài chính kỳ 2 tháng 3/2016
7.
Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam
(2016), ”Những thách thức và kinh nghiệm áp dụng
chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế”, tháng 6/2016
8. Lê Doãn Hoài
(2016), “Chuẩn mực kế toán toàn cầu – xu
thế đi lên tất yếu của các quốc gia”, Trường Đại học Tài chính – Marketing
9. http://blog.trginternational.com/vi/tu-vas-sang-ifrs#sthash.TPn5PdtM.dpuf