CẤU TRÚC TÀI CHÍNH VÀ HIỆU QUẢ TÀI
CHÍNH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TỈNH NGHỆ AN
ThS.
Nguyễn Thị Bích Thủy, TS. Nguyễn Thị Hạnh Duyên
Khoa
Kinh tế - Trường Đại học Vinh
Tóm
tắt: Phân tích, đánh giá cấu trúc tài chính và hiệu quả tài chính sẽ giúp các đối
tượng quan tâm đánh giá được những đặc trưng cơ bản về tình hình tài chính cũng
như kết quả hoạt đông kinh doanh của các doanh nghiệp. Bài viết sử dụng dữ liệu
từ báo cáo tài chính của 90 doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Nghệ An để
tập trung phân tích và đánh giá thực trạng cấu trúc tài chính và hiệu quả tài
chính của các DNNVV, từ đó đưa ra một số gợi ý cho các doanh nghiệp về việc duy
trì một cấu trúc tài chính hợp lý nhằm đạt được hiệu quả tài chính cao nhất.
Từ
khóa: cấu trúc tài chính, hiệu quả tài chính, doanh nghiệp nhỏ và vừa
1. Cấu trúc tài chính và hiệu quả tài
chính doanh nghiệp
Một cấu trúc tài chính phù hợp là
quyết định quan trọng với mọi doanh nghiệp không chỉ bởi nhu cầu tối đa lợi ích
thu được từ các cá nhân và tổ chức liên quan tới doanh nghiệp và hoạt động
của doanh nghiệp mà còn bởi tác động của quyết định này tới năng lực kinh doanh
của doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh. Cấu trúc tài chính của doanh
nghiệp đứng trên góc độ quản lý nguồn vốn là mối tương quan tỷ lệ giữa Nợ và
Vốn chủ sở hữu. Một cấu trúc tài chính được coi là tối ưu khi chi phí sử dụng
vốn trung bình (WACC - Weighted Average Cost of Capital) thấp nhất, đồng thời
khi đó giá trị doanh nghiệp đạt được là lớn nhất.
Hiệu quả tài chính doanh nghiệp là hiệu quả của việc
huy động, sử dụng và quản lý vốn trong doanh nghiệp (Trương Bá Thanh và Trần
Đình Khôi Nguyên, 2001). Trên quan điểm của chủ sở hữu doanh nghiệp, hiệu quả
tài chính là hiệu quả của việc giữ gìn và phát triển nguồn vốn chủ sở hữu. Để
đánh giá được cấu trúc tài chính của doanh nghiệp đã tối ưu hay chưa, có mang lại
giá trị tối đa về hiệu quả tài chính hay không thì cần có chỉ tiêu để đo lường,
đánh giá CTTC và HQTC một cách hợp lý.
Theo số liệu thống kê, hiện tại tại Nghệ An có trên
98% doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa đang hoạt động. Kết quả hoạt động của những
doanh nghiệp này đóng góp lớn vào sự phát triển và ổn định kinh tế Nghệ An. Vì
vậy còn xem xét tình hình thực tế và đánh giá về cấu trúc tài chính cũng như hiệu
quả tài chính của các DNNVV trên địa bàn tỉnh Nghệ An. Bài viết sẽ đưa ra những
phân tích đánh giá dựa trên số liệu BCTC do 90 doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa
bàn tỉnh Nghệ An công bố năm 2014 và 2015. Trong đó cấu trúc tài chính được đo
lường bởi 4 chỉ tiêu cơ bản là Hệ số nợ (D/A), hệ số nợ ngắn hạn (SD/A), hệ số
nợ dài hạn (LD/A) và hệ số nợ trên vốn chủ sở hữu (D/E); hiệu quả tài chính được
đo lường bởi hai chỉ tiêu là Tỷ suất sinh lời của tài sản (ROA) và tỷ suất sinh
lời vốn chủ sở hữu (ROE).
2.
Đánh giá cấu trúc tài chính DNNVV trên địa bàn tỉnh
Nghệ An
Theo số liệu thống kê, hiện tại, Nghệ An có trên
98% DN nhỏ và vừa (DNNVV) đang hoạt động. Kết quả hoạt động của những DN này
đóng góp lớn vào sự phát triển và ổn định kinh tế Nghệ An. Bài viết dựa trên những
phân tích đánh giá dựa trên số liệu báo cáo tài chính do 90 DNNVV trên địa bàn
tỉnh Nghệ An công bố năm 2014 và 2015. Trong đó, cấu trúc tài chính được đo lường
bởi 4 chỉ tiêu cơ bản là Hệ số nợ (D/A), hệ số nợ ngắn hạn (SD/A), hệ số nợ dài
hạn (LD/A) và hệ số nợ trên vốn chủ sở hữu (D/E); hiệu quả tài chính được đo lường
bởi hai chỉ tiêu là tỷ suất sinh lời của tài sản (ROA) và tỷ suất sinh lời vốn
chủ sở hữu (ROE).
Phân
tích cấu trúc tài sản
Trên địa bàn Nghệ An, quy mô của các DNNVV có sự
chênh lệch khá lớn, trong số 93 DN được khảo sát thì DN có tổng giá trị tài sản
lớn nhất là gần 767 tỷ đồng, trong khi DN có tổng giá trị tài sản nhỏ nhất là
hơn 1,2 tỷ đồng, giá trị tài sản bình quân của các DN được khảo sát là hơn 45 tỷ
đồng. Dựa vào số liệu của 93 DN được khảo sát thông tin báo cáo tài chính năm
2014 và 2015 cho thấy, tài sản ngắn hạn chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng tài sản,
tỷ trọng tài sản ngắn hạn trung bình năm 2014 là 67% trong khi số liệu này của
năm 2015 là 68%. Cá biệt có một số DN tỷ trọng tài sản ngắn hạn chiếm 98% trong
cơ cấu tài sản.
Trong tài sản ngắn hạn của các DNNVV trên địa bàn tỉnh
Nghệ An, khoản phải thu chiếm tỷ trọng khá lớn. Một số DN hoạt động trong lĩnh
vực xây lắp có giá trị hàng tồn kho lớn, chiếm tỷ trọng cao trong tổng tài sản
ngắn hạn. Do đặc thù của các DNNVV là hoạt động chủ yếu ở các lĩnh vực thương mại,
xây lắp, do đó lượng hàng tồn kho cao, tổng giá trị tài sản ngắn hạn lớn. Bên cạnh
đó, qua số liệu tác giả tổng hợp cho thấy, hầu hết các DNNVV hiện nay đang bị
chiếm dụng vốn lớn từ phía bạn hàng, thể hiện ở chỉ tiêu các khoản phải thu ở tất
cả các DN được khảo sát là rất cao.
Trong tài sản dài hạn, hầu hết là tài sản cố định
vì các DNNVV không tập trung đầu tư tài chính dài hạn hay xây dựng cơ bản mà chỉ
mua sắm tài sản cố định hữu hình phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ.Đa
số doanh nghiệp được khảo sát có giá trị tài sản cố định hữu hình chiếm tỷ trọng
100% trong tổng tài sản dài hạn.
Phân
tích cấu trúc nguồn vốn
Các DNNVV trên địa bàn Nghệ An có đặc điểm về cấu
trúc nguồn vốn chịu ảnh hưởng từ đặc điểm cấu trúc tài sản. Trong 93 doanh nghiệp
được khảo sát, có 60 doanh nghiệp không có khoản vay dài hạn mà chỉ có nợ phải
trả ngắn hạn. Trong đó, nợ phả trả lớn nhất năm 2015 là hơn 511 tỷ đồng, con số
này của năm 2014 là 440 tỷ đồng. Mức nợ phải trả trung bình của mẫu nghiên cứu năm
2015 là 33 tỷ đồng và năm 2014 là 32,5 tỷ đồng. Tất cả các khoản nợ phải trả ngắn
hạn này đều chủ yếu đầu tư cho tài sản ngắn hạn, như đầu tư vào hàng tồn kho, bị
khách hàng chiếm dụng với giá trị tài sản ngắn hạn trung bình của mẫu nghiên cứu
năm 2015 là 27,9 tỷ đồng và năm 2014 là 26 tỷ đồng.
Việc sử dụng nợ ngắn hạn để đầu tư cho các hoạt động
ngắn hạn giúp các DNNVV duy trì được hệ số nợ ở mức chấp nhận được. Hệ số nợ
(được tính bằng tỷ số giữa tổng nợ phải trả và tổng tài sản) trung bình của 93
doanh nghiệp được nghiên cứu là 0,76 với hệ số nợ cao nhất là 7,67. Hệ số nợ ngắn
hạn (được tính bằng tỷ số giữa nợ phải trả ngắn hạn và tài sản ngắn hạn) trung
bình của mẫu nghiên cứu là 1, trong đó hệ số nợ ngắn hạn cao nhất là 3,53. Các
chỉ số nợ này cho thấy các DNNVV trên địa bàn tỉnh Nghệ An hiện nay hoạt động
chủ yếu dựa vào nguồn vốn vay ngắn hạn, có một số doanh nghiệp hoàn toàn dựa
vào vốn vay. Tỷ trọng giữa nợ và vốn chủ sở hữu luôn ở mức cao, với hệ số nợ
trên vốn chủ sở hữu trung bình là 7,34 và chỉ số này cao nhất là 177,28. Con số
này cho thấy phần vốn tự có của các DNNVV là rất nhỏ, hoạt động sản xuất kinh
doanh phần lớn dựa vào phần vốn đi vạy. Thực tế từ mẫu nghiên cứu đã cho thấy,
trong số các DN được khảo sát, có 3 doanh nghiệp có vốn chủ sở hữu âm (<0).
Lý thuyết giải thích cho vấn đề này chính là do các doanh nghiệp vay để kinh
doanh nhưng hoạt động không hiệu quả, trong khi đó tài sản đảm bảo không có giá
trị hoặc không có tài sản đảm bảo các khoản vay, do đó dẫn đến doanh nghiệp
không đủ khả năng thanh toán các khoản nợ vay. Đây chính là các khoản nợ xấu,
là hậu quả của việc hoạt động kinh doanh phụ thuộc hoàn toàn vào các khoản vốn
vay.
3.
Đánh giá hiệu quả tài chính DNNVV trên địa bàn tỉnh
Nghệ An
Trong hai năm 2014 và 2015, các DNNVV trên địa bàn tỉnh
Nghệ An xét trung bình (bình quân) có sự tăng trưởng về doanh thu thuần và lợi
nhuận gộp, tuy nhiên lợi nhuận sau thuế lại có sự sụt giảm đáng kể. Đặc biệt,
qua mẫu 93 doanh nghiệp mà nhóm tác giả nghiên cứu, có sự thay đổi lợi nhuận
sau thuế từ năm này sang năm khác một cách đột ngột, có những năm lãi hàng tỷ đồng
nhưng ngay sau đó có thể lỗ hàng trăm triệu đồng. Đáng chú ý là có một số doanh nghiệp kinh
doanh thua lỗ và tài sản giảm đã khiến cho vốn chủ sở hữu âm.
Chỉ tiêu
|
Tối đa
|
Tối thiểu
|
Trung bình
|
Doanh thu thuần 2014
|
474,465,788,948
|
0
|
56,389,399,211
|
Doanh thu thuần 2015
|
515,949,881,405
|
369,746,541
|
54,871,139,431
|
Lợi nhuận gộp 2014
|
31,587,586,374
|
(1,691,929,806)
|
4,972,060,001
|
Lợi nhuận gộp 2015
|
41,550,423,053
|
(1,568,763,776)
|
(1,568,763,776)
|
Lợi nhuận sau thuế 2014
|
10,776,694,158
|
(8,860,921,273)
|
602,010,648
|
Lợi nhuận sau thuế 2015
|
5,860,105,330
|
(5,868,439,364)
|
267,888,351
|
Tình hình kinh doanh của các DNNVV năm 2014, 2015
Doanh thu thuần năm 2015 của các DN trong mẫu nghiên
cứu có biến động giảm khá lớn, trong đó có 62% doanh nghiệp có sự sụt giảm so với
năm 2014. Trong đó có sự tăng trưởng đột biến về doanh thu của một DN với sự
gia tăng doanh thu thuần năm 2015 so với năm 2014 là hơn 128 tỷ đồng, trong khi
đó sự sụt giảm lớn nhất trong nội dung này là hơn 64 tỷ đồng.
Về chỉ tiêu lợi nhuận sau thuế, có 47% doanh nghiệp
được khảo sát có sự gia tăng so với năm 2014. Mức tăng lợi nhuận sau thuế năm
2015 so với năm 2014 cao nhất là hơn 6 tỷ đồng trong khi mức giảm cao nhất của
chỉ tiêu này là hơn 9 tỷ đồng. Xét trung bình mẫu nghiên cứu, chỉ tiêu lợi nhuận
sau thuế năm 2015 giảm so với năm 2014 là hơn 334 triệu đồng.
Hiệu quả tài chính của các DNNVV trên địa bàn tỉnh
Nghệ An còn được đánh giá dựa trên hai hệ số: Tỷ suất sinh lời của tài sản
(ROA) và Tỷ suất sinh lời của vốn chủ sở hữu (ROE). ROA là tỷ số quan trọng mà
nhà quản trị thường quan tâm, phản ánh một đồng tài sản họ đưa vào sản xuất
kinh doanh trong một kỳ tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận (sau thuế). ROE là
tỷ số quan trọng đối với các cổ đông – chủ sở hữu công ty, tỷ số này đo lường
khả năng sinh lợi trên mỗi đồng vốn của cổ đông thường. Chỉ số này là thước đo
chính xác để đánh giá một đồng vốn bỏ ra và tích lũy tạo ra bao nhiêu đồng lời.
Tỷ lệ ROE càng cao càng chứng tỏ công ty sử dụng hiệu quả đồng vốn của cổ đông,
có nghĩa là công ty đã cân đối một cách hài hòa giữa vốn cổ đông với vốn đi vay
để khai thác lợi thế cạnh tranh của mình trong quá trình huy động vốn, mở rộng
quy mô.