Chính sách
việc làm không chỉ xem xét các giải pháp liên quan để tạo việc làm, hỗ trợ tìm
việc làm mà còn xem xét cả các chính sách khuyến khích người lao động tự tạo việc
làm. Chính sách việc làm không chỉ hướng tới đạt được các mục tiêu về số lượng
việc làm mà liên quan đến cả chất lượng việc làm. Vì vậy, “Chính sách việc làm của địa phương là một hệ thống các quan điểm, các mục
tiêu, các giải pháp và công cụ để chính quyền địa phương giải quyết việc làm (tạo
việc làm, hỗ trợ tìm việc làm và khuyến khích tự tạo việc làm) cả về khía cạnh
số lượng và chất lượng việc làm cho lực lượng lao động địa phương”. Từ đây
cho thấy chính sách việc làm ở cấp địa phương là một chính sách có tính liên ngành, đa lĩnh vực, liên
quan đến nhiều đơn vị, tổ chức. Chủ thể
ban hành chính sách việc làm là chính quyền địa phương. Việc tổ chức thực thi
chính sách việc làm được thực hiện thông qua bộ máy hành chính cấp tỉnh, cấp
huyện và cấp xã phường. Việc ban hành và tổ chức thực thi chính sách việc làm của
địa phương không phải là các hoạt động do một cơ quan chuyên môn của chính quyền
địa phương phụ trách mà là một chính sách liên ngành có liên quan đến nhiều cơ
quan khác nhau. Đối tượng của chính sách việc làm là lực lượng lao động ở địa
phương, những người đang có việc làm hoặc những người thất nghiệp. Đây là những
người hưởng lợi từ chính sách việc làm của địa phương. Chính sách việc làm của địa
phương là một hệ thống các mục tiêu, giải pháp được thực hiện ít nhất 3 hoặc 4
năm, được xây dựng trên cơ sở phân tích toàn diện về tình hình việc làm của địa
phương, bối cảnh kinh tế xã hội, dựa trên cơ sở thảo luận về các lựa chọn tốt
nhất để giải quyết việc làm cho người lao động địa phương. Chính sách việc làm ở địa phương góp phần thực hiện các mục tiêu
của hệ thống chính sách kinh tế, chính sách xã hội ở địa phương và thực hiện mục
tiêu phát triển kinh tế xã hội ở cấp quốc gia, nâng cao phúc lợi, bình đẳng
xã hội và hòa nhập xã hội của người lao động. Là một bộ phận cấu thành của hệ
thống chính sách kinh tế xã hội quốc gia, vì vậy chính sách việc làm địa phương
cần thống nhất với chính sách việc làm của quốc gia và thống nhất với các chính
sách kinh tế xã hội khác. Chính sách việc làm của địa
phương được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như là một tuyên bố trong
các nghị quyết của hội đồng nhân dân về phát triển kinh tế xã hội địa phương,
trong một quyết sách của địa phương về xóa đói giảm nghèo, hay trong quyết định
riêng về chính sách việc làm của địa phương. Những địa phương có tham vọng cao trong
giải quyết việc làm cho lao động địa phương thường ban hành chính sách việc làm
riêng trong một văn bản cụ thể của chính quyền địa phương.
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến chính
sách việc làm ở cấp địa phương
Từ
việc phân tích bản chất và nội dung của chính sách việc làm ở cấp địa phương
như trên có thể thấy rằng việc hoạch định và tổ chức thực thi chính sách của địa
phương sẽ chịu tác động của nhiều nhân tố cả bên trong lẫn bên ngoài, bao gồm:
2.1. Các yếu tố thuộc
chính quyền địa phương
a)
Sự quyết tâm của lãnh đạo tỉnh về giải quyết việc
làm
Giải quyết việc làm luôn là vấn
đề cấp bách của bất kỳ một quốc gia hay địa phương nào. Việc có được một hệ thống
chính sách việc làm tối ưu để giúp lao động địa phương có được việc làm bền vững
luôn cần có sự quyết tâm và đi tiên phong của các nhà lãnh đạo. Những địa
phương có sự quyết tâm cao của lãnh đạo và từ đó có những chiến lược tốt về vấn
đề việc làm sẽ là những điều kiện tiên quyết cho chính sách việc làm trong từng
thời kỳ phát triển của địa phương. Kinh nghiệm ở nhiều quốc gia cho thấy, những
địa phương không có sự chủ động, tiên phong của lãnh đạo trong giải quyết việc
làm thường dẫn đến tình trạng thất nghiệp dai dẳng (OECD, 2008).
b)
Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội địa phương
Quy hoạch phát triển KT-XH là
sản phẩm của chính quyền địa phương và yếu tố ảnh hưởng căn bản lên chính sách
việc làm. Là một kế hoạch mang tính chất định hướng cho chính sách việc làm,
quy hoạch phát triển KT-XH có vai trò phác thảo nên những đường nét phát triển
KT-XH về mặt không gian, là cơ sở cho xây dựng các nội dung chính sách phát triển
kinh tế tạo việc làm ở địa phương. Vì vậy, chất lượng của quy hoạch sẽ ảnh hưởng
trực tiếp đến các nội dung của chính sách việc làm.
c)
Hoạch định và tổ chức thực thi chính sách việc làm của
chính quyền địa phương
Quá trình
chính sách việc làm bắt đầu từ giai đoạn hoạch định cho đến giai đoạn tổ chức
thực thi chính sách của chính quyền cấp tỉnh. Quá trình chính sách này sẽ ảnh
hưởng trực tiếp đến nội dung chính sách việc làm được ban hành.
Hoạch định
chính sách quyết định tiên quyết đến nội dung chính sách. Trong quá trình hoạch
định, nếu các cơ quan hoạch định có những điều kiện sau thì sẽ có được nội dung
chính sách việc làm tối ưu: (1) năng lực hoạch định chính sách tốt; (2) thực hiện
một cách khoa học quá trình hoạch định chính sách: căn cứ sát thực vào tình
hình địa phương, tính tới sự khác biệt của lao động ở các khu vực địa lý khác
nhau, căn cứ vào sự phát triển kinh tế xã hội, những tiềm năng và những có hội
có thể huy động của địa phương; (3) thu hút sự tham gia của người dân và các tổ
chức tại địa phương trong đề xuất các sáng kiến về chính sách và sáng kiến tổ
chức thực thi chính sách (OECD, 2008).
Tuy vậy, hoạch
định chính sách mới chỉ là điều kiện cần, tổ chức thực thi chính sách tốt là điều
kiện đủ để chính sách đó có thể đi vào cuộc sống và được người dân đánh giá phù
hợp với nhu cầu của họ. Mặt khác, những bài học rút ra từ tổ chức thực thi
chính sách giúp các nhà hoạch định có được thông tin phản hồi để hoàn thiện các
nội dung chính sách, đặc biệt là thông tin phản hồi từ khâu giám sát và đánh
giá chính sách.
d)
Năng lực tài chính của địa phương
Những nội dung được ban hành
trong hệ thống chính sách việc làm luôn thể hiện những tham vọng của chính quyền
địa phương, thể hiện rõ ràng nhất ở phần mục tiêu chính sách việc làm. Tuy
nhiên, năng lực tài chính của địa phương nhiều khi không cho phép chính quyền địa
phương thực hiện các chính sách tham vọng, dù biết rằng chính sách đó phù hợp với
nhu cầu của các bên liên quan, đặc biệt là người lao động. Một địa phương có sự
phát triển kinh tế mạnh, nguồn thu ngân sách sáng sủa là yếu tố quyết định đến
một chính sách việc làm có tính bao phủ rộng hơn là chính sách chỉ có tính chất
ưu tiên (OECD, 2010).
2.2.
Yếu tố thuộc môi trường của chính quyền
địa phương
a)
Đặc điểm của lao động địa phương
Đặc thù của lao động địa
phương là cơ sở cho hoạch định chính sách việc làm và gián tiếp ảnh hưởng đến nội
dung của chính sách việc làm. Sự tăng trưởng mạnh về quy mô của lực lượng lao động
địa phương tạo sức ép lớn cho chính sách việc làm. Yếu tố nhân khẩu học như cơ
cấu giới tính, cơ cấu tuổi của lực lượng lao động, cơ cấu dân tộc, tôn giáo là
những căn cứ cơ bản ảnh hưởng đến chính sách việc làm. Trình độ dân trí, hồ sơ giáo dục, trình trạng
thu nhập, xuất thân của người lao động chủ yếu là từ thuần nông hay không, thói
quen và truyền thống văn hóa của người dân địa phương… đều là những yếu tố cần
quan tâm khi hoạch định chính sách việc làm. Chính sách việc làm không tính tới
các yếu tố kiểm soát này có thể dẫn đến chính sách sai, không phù hợp với đặc
điểm lao động địa phương.
b)
Sự phát triển kinh tế của các địa phương lân cận
Sự phát triển kinh tế ở các địa
phương lân cận ảnh hưởng lên chính sách việc làm của địa phương trên hai khía cạnh.
Kinh tế địa phương lân cận phát triển hay không sẽ thu hút việc di cư lao động
đi và di cư lao động đến, vì vậy chính sách việc làm của địa phương phải tính tới
đặc điểm của lao động di cư đi, lao động ở lại địa phương và lao động di cư đến.
Mặt khác, phát triển kinh tế địa phương lân cận sẽ ảnh hưởng đến các chính sách
kinh tế tạo việc làm ở địa phương xét trên khía cạnh thu hút các doanh nghiệp đầu
tư vào địa phương để tạo việc làm, cũng như hợp tác kinh tế với các địa phương
lân cận để tạo việc làm cho người lao động.
c)
Chiến lược và chính sách việc làm quốc gia
Những định hướng từ chiến lược
và chính sách việc làm quốc gia là cơ sở cho những mục tiêu và các giải pháp
chính sách việc làm ở địa phương. Chính sách việc làm quốc gia có thể tạo ra những
cơ hội và những thách thức cho chính sách việc làm ở địa phương. Những vấn đề về
việc làm mà chính sách việc làm quốc gia đã giải quyết có thể giảm nhẹ gánh nặng
cho chính sách việc làm địa phương. Vấn đề ngân sách hạn hẹp khó khả thi tài chính cho một chính sách việc
làm quốc gia có tính bao phủ rộng có thể dẫn đến cắt giảm phạm vi chính sách
cũng như đối tượng thụ hưởng, sẽ gây sức ép cho chính sách việc làm địa phương.
Tuy nhiên có những vấn đề việc làm đặc thù địa phương mà chính sách việc làm quốc
gia không thể phù hợp, vì vậy cần có những nội dung giải quyết các vấn đề đặc
thù này trong phạm vi chính sách địa phương.
d)
Sự phi tập trung hóa trong ban hành chính sách việc
làm
Sự phi tập
trung hóa trong ban hành chính sách cho chính quyền địa phương là điều kiện
thúc đẩy sự linh hoạt chính sách địa phương để giải quyết các vấn đề việc làm
có tính chất địa phương (OECD, 2000). Tuy nhiên phạm vi phi tập trung hóa phù hợp
sẽ ảnh hưởng đến với mối quan tâm của địa phương cũng như năng lực của chính
quyền địa phương trong giải quyết việc làm. Một thể chế tập trung hóa sẽ dẫn đến
sự không linh hoạt, bị động và “chờ đợi” của địa phương trong các vấn đề về việc
làm. Sự phi tập trung rộng mở tạo thuận lợi cho chính sách việc làm linh hoạt ở
địa phương như chủ động hợp tác với các đối tác trong đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, chủ động trong xác định đối tượng và
mức hỗ trợ giải quyết việc làm, chủ động trong lựa chọn các giải pháp phát triển
kinh tế địa phương, huy động các nguồn lực cho thực thi chính sách việc làm…
e)
Sự hỗ trợ và phối hợp của các tổ chức có liên quan
Ngoài bộ máy ban hành và tổ
chức thực hiện chính sách của địa phương thì các tổ chức có liên quan khác đóng
vai trò không thể thiếu trong đề xuất cũng như trong triển khai chính sách việc
làm. Một số các tổ chức chính trị xã hội liên quan như mặt trận tổ quốc, hội phụ
nữ, hội cựu chiến binh, đoàn thanh niên, hội nông dân. Bên cạnh đó các tổ chức
cung cấp dịch vụ việc làm, các trường cao đẳng đại học, các trung tâm dạy nghề,
các tổ chức đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài là những tổ chức ảnh hưởng
trực tiếp tới việc hoàn thiện và triển khai chính sách. Một số các tổ chức cộng
đồng, các tổ chức đoàn thể xã hội, các cơ quan phát thanh truyền hình, báo chí
cũng là những lực lượng không thể thiếu trong quá trình chính sách việc làm.
f)
Các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội địa phương
Điều kiện tự nhiên, kinh tế
và xã hội địa phương là những thông tin quan trọng cho việc xác định những nội dung chính sách việc
làm. Điều kiện tự nhiên ảnh hưởng đến đặc điểm dân cư, đặc điểm lao động cũng
như những lợi thế, bất lợi đối với phát triển kinh tế - đó là những thông tin ảnh
hưởng đến mục tiêu và giải pháp chính sách. Địa phương có xuất phát điểm kinh tế
cao, điều kiện kinh tế thuận lợi, ổn định sẽ là cơ hội cho chính sách việc làm
và ngược lại. Môi trường xã hội cũng ảnh hưởng không nhỏ tới chính sách việc
làm qua yếu tố trình độ dân trí, gia tăng dân số tự nhiên, gia tăng dân số cơ học,
phong tục tập quán vùng miền…
3.
Kết luận
Chính sách việc làm của địa phương sẽ phải chịu sự
tác động của rất nhiều nhân tố theo hướng tích cực hay tiêu cực, trực tiếp hay
gián tiếp, ở phạm vi rộng hay hẹp. Do đó, các chủ thể chính sách của chính quyền
địa phương đòi hỏi phải có khả năng trực quan tốt, có đầu óc phán đoán, nhạy bén linh hoạt, có khả năng phân
tích, đánh giá một cách logic, khoa học. Điều này giúp cho việc hoạch định và tổ
chức thực thi chính sách việc làm đạt các mục tiêu đặt ra.
Tài liệu tham khảo
1.
ILO
(2012), Sáng kiến quản lý về giới và
chính sách kinh tế Ở châu Á – Thái Bình Dương: việc làm và thị trường lao động,
Trung tâm Vùng Châu Á – Thái Bình Dương, Thái Lan.
2.
John
Maynard Keynes (1994), “ Lý thuyết tổng
quát về việc làm, lãi suất, tiền tệ”, Nhà xuất bản giáo dục, sách dịch
3.
Khoa Khoa học quản lý (2012), Giáo trình Chính sách
kinh tế - xã hội, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Nhà xuất bản Khoa học kỹ
thuật
4.
Lê Xuân
Bá và các tác giả (2006), Báo cáo nghiên cứu các yếu tố ảnh
hưởng đến quá trình chuyển dịch cơ cấu của
lao động nông thôn việt nam, Viện
nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương
5.
Peter Aucoin (1971), Lý thuyết và nghiên cứu về hoạch định chính sách, NXB
Macmillan,Toronto, Canada
6.
Roger Blanpain,Juan Pablo Landa Zapirain,Brian Langille
(2009), Employment Policies and Multilevel Governance, Buttellin of Comparative Labour Relation.
7.
Thomas Bredgaard, Flemming
Larsen (2005), Employment Policy from Different Angles, DJØF
Publishing
8.
Thomas R Dye (2012), Understanding Public Policy, Pearson.
ThS. NCS Đào Quang Thắng, TS. Thái Thị
Kim Oanh Khoa Kinh tế - Đại học Vinh